Wednesday 13 August 2014

Những Ngày Cuối Của VNCH

Nguyên Tác: The Final Collapse 

Của Đại Tướng Cao Văn Viên. 
Dịch Giả: Nguyễn Kỳ Phong


 Chương 3: Tình Hình Quân Sự Sau Ngày Ngưng Bắn 1973-1974


Trên lý thuyết, Hiệp Đinh Paris ngày 27 tháng Giêng 1973 kết thúc chiến tranh Việt Nam. Nhưng chiến tranh chỉ thật sự kết thúc ở miền Bắc mà thôi; ở miền Nam cuộc xung đột vẫn xảy ra: không một điều khoản nào của hiệp định bắt cộng sản rút quân ra khỏi miền Nam hay bắt họ phải đóng quân tại một chỗ. Cộng sản Bắc Việt giữ lại ở miền Nam một một số quân lớn để bảo đảm cho những thương lượng chính trị có lợi cho họ và để đối phó với bất cứ những biến cố nào xảy ra trong tương lai. Không một ủy ban quốc tế nào có thể kiểm soát và thi hành hiệp định một cách hữu hiệu đối với những vi phạm một cách trắng trợn và cố ý của cộng sản.
Vai Trò của  Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến
Ủy Ban Quốc tế Kiểm Soát Đình Chiến (International Commission for Control and Supervision; ICCS) được thành lập để giám sát và thi hành cuộc ngưng bắn theo điều khoản của Hiệp Định Paris. Các quốc gia thành viên nguyên thủy của ICCS là Gia Nã Đại, Nam Dương, Hung Gia Lợi và Ba Lan. Nhưng sau một thời gian không lâu, Gia Nã Đại thấy thất vọng về những diễn biến sau ngày hiệp định có hiệu lực nên rút tên khỏi ICCS. Thế vào chỗ của Gia Nã Đại là Iran. Trách nhiệm của ICCS là: (1) Theo dõi và liên lạc hai bên và giám sát tại chỗ việc thi hành những điều khoản của hiệp định; (2) Điều tra những vi phạm theo lời yêu cầu của Ủy Ban Quân Sự Bốn Bên, hay Ủy Ban Quân Sự Hai Bên (như được xác định trong bản hiệp định), hay bất cứ từ phía nào, ở mọi nơi, nếu ICCS thấy có lý do để điều tra; (3) Khi thấy cần thiết, ICCS sẽ hợp tác với Ủy Ban Quân Sự Hai Bên, hay Ủy Ban Quân Sự Bốn Bên để ngăn chận hay truy tầm những vi phạm.
Ủy Ban ICCS hành sự trên căn bản tham vấn dựa vào sự đồng ý của đa số tuyệt đối. Lối hành sự này trên thực tế là khi ủy ban không thể giải quyết một vi phạm quan trọng, ủy ban sẽ thông báo cho các phía với sự đồng ý của họ. Trong trường hợp không đạt được sự đồng ý của đa số, ủy ban chỉ thông báo chung hay nói miệng cho VNCH và MTGPMN thay vì ghi lại những vi phạm đó như một hồ sơ chính thức. Chức chủ tịch ICCS được thay giữa bốn quốc gia hội viên hàng tháng.
Ngay từ khi bắt đầu, ủy ban ICCS đã bị khó khăn vì nguyên tắc hành sự đặt ra. Tham vấn dựa trên sự đồng ý của đa số tuyệt đối thì không thể thực hiện được sự đồng ý hay không lúc nào cũng phụ thuộc vào thiện chí và chủ đích của mỗi hội viên. Một sự đồng ý chung trong ủy ban ICCS gần như không bao giờ xảy ra: hai hội viên Ba Lan và Hung Gia Lợi không bao giờ chịu hợp tác nếu phải điều tra một vi phạm có thể làm bất lợi cho phía cộng sản. Như vậy, nhiều trường hợp vi phạm của CSBV đã không được điều tra. Trừ một trường hợp vi phạm ở Sa Huỳnh: đại diện của phái đoàn Ba Lan đã trình bày ý kiến trung thực về sự vi phạm của CSBV, nhưng sau đó, ông bị chính phủ của ông khiển trách.
Về các vấn đề kiểm soát quân dụng và chiến cụ đem vào miền Nam để thay thế cho VNCH và MTGPMN như được cho phép bởi điều khoản của bản hiệp định: ủy ban ICCS đã bất lực trong vấn đề thực thi điều khoản này. Kết quả là VNCH phải tự giải quyết lấy khó khăn của mình và sẵn sàng trả lời ICCS nếu ủy ban này đặt vấn đề. Đó là thiện chí của phía VNCH. Nhưng bên phía cộng sản thì sao" Không ai biết được cộng sản đã tăng viện cho quân đội họ bao nhiêu vũ khí và quân dụng vì ủy ban ICCS không thiết lập một trạm kiểm soát thường trực ở những điểm du nhập như đã ghi trên hiệp định. Từ những lý do trên, ủy ban ICCS được coi như hoàn toàn bất lực. Mọi người đều có thể tiên đoán nếu Việt Cộng và CSBV công khai tiếp tục tấn công miền Nam, thì ủy ban ICCS cũng không quan tâm cho lắm. Năm 1975 khi CSBV dùng chiến xa, đại bác và quân bộ binh đánh chiếm Phước Long và Ban Mê Thuột (xem Chương 5), ủy ban ICCS đã không hề lên tiếng phản đối, nói chi đến chuyện mở màn cuộc điều tra.
ICCS không đủ nhân viên làm việc, thêm vào đó nhiệm vụ của các nhân viên của hai quốc gia tự do (Indonesia và Gia Nã Đại) bị các đơn vị CSBV và hai hội viên cộng sản cản trở trong lúc thi hành nhiệm vụ. Trường hợp điển hình là ba nhân viên Gia Nã Đại bị CSBV tạm giữ vào năm 1973. Đó là kế hoạch của CSBV muốn gây khó khăn cho ba nhân viên này vì họ đã điều tra và thi hành nhiệm vụ rất tận tụy. CSBV muốn cho Gia Nã Đại mất mặt và chán nản. Suốt thời gian khá lâu trong lúc thi hành nhiệm vụ, ba nhân viên Gia Nã Đại bị ủy ban ICCS làm ngơ, và đôi khi bị ngăn cản khi họ muốn liên lạc với tòa đại sứ của họ. Sau cùng, phái đoàn Gia Nã Đại phải rút khỏi ủy ban và được thay thế bởi Iran (Ba Tư). Hai phái đoàn Hung Gia Lợi và Ba Lan ngã về phe cộng sản một cách lộ liễu. Ngoài sự thiên vị đó, Ba Lan và Hung Gia Lợi bị nghi ngờ giúp CSBV thu thập tin tức tình báo như chụp hình và vẽ bản đồ các căn cứ quân sự, địa hình. Từ ngày đầu ngưng bắn, CSBV đã biết lợi dụng ủy ban ICCS qua nhiều cách.
Kế Hoạch Chiếm Đất Giành Dân của CSBV
Những vùng đất CSBV chiếm được gồm vùng Phi Quân Sự, một số lớn các vùng thưa dân, rừng núi, và 21 căn cứ hậu cần. Cuộc ngưng bắn cho cộng sản cơ hội được đóng quân lẫn lộn với các vị trí của VNCH theo một hình thể phức tạp đúng theo ý muốn của CSBV. Một ngày trước khi hai bên ký hiệp định, phía cộng sản tự tin là họ sẽ thắng VNCH sau khi ngưng bắn. Cộng sản thực hiện ý định của họ qua phương pháp "chiếm đất giành dân." Kế hoạch này gồm có ba giai đoạn, được cộng sản đề ra trong tài liệu học tập dành cho đảng cộng sản, quân đội và cán bộ địa phương. (1)
Giai đoạn I là giai đoạn chuyển mọi nỗ lực sang tuyên truyền và quân sự. Trong giai đoạn này tất cả các cán bộ, nhất là cán bộ chính trị, phải học thuộc bản hiệp định một cách từ chương, thuộc làu làu các điều khoản trong hiệp định rồi tuyên truyền và giải thích theo đường lối có lợi cho họ. Nhiều toán tuyên truyền được thành lập với nhiệm vụ tuyên truyền quần chúng và đấu khẩu với cán bộ của chính quyền VNCH khi chạm trán. Một trong những nhiệm vụ của toán là đi thu thập tất cả các máy may và vải xanh đỏ để may cờ MTGPMN càng nhiều càng tốt. Vào ngày ngưng bắn, toán tuyên truyền thúc dục mọi người treo cờ MTGPMN ở mọi nơi có thể treo đuợc. CSBV làm như vậy để chúng tỏ đó là đất của họ. Cùng lúc, cộng sản dụ dân chúng đòi hỏi chính quyền VNCH bỏ thiết quân luật, giờ giới nghiêm, và các sắc lệnh quân dịch. Cộng sản thúc dục người dân đòi hỏi chính phủ VNCH cho phép người dân có thêm tự do như tự do đi lại, hội họp, phát ngôn, hay gia nhập các đảng phái tôn giáo chính trị. Sự tự do đi lại cho phép các dân cư đang sống an lành trong các làng ấp dân sinh trở về làng đất cũ của họ. Ở đó, họ sẽ nằm dưới sự quản trị của cộng sản. Các đơn vị cộng sản được lệnh chia ra thành từng toán nhỏ ở cấp trung và đại đội đi chiếm càng nhiều xã ấp càng tốt, và giữ các nơi đó cho đến khi đại diện của ICCS đến thanh tra.
Giai đoạn II là giai đoạn thực thi kế hoạch. Sau khi cuộc ngưng bắn được tuyên bố, các cơ cấu tuyên truyền, quân sự và chính trị của cộng sản sẽ cùng hoạt động, thúc dục dân chúng nổi dậy phá vỡ các kế hoạch bình định của chúng ta để tạo một sự hỗn loạn khắp nơi. Đồng thời, bằng nhiều phương cách, CSBV hoặc yêu cầu VNCH giải binh hoặc tấn công triệt tiêu căn cứ quân sự của chúng ta.
Gia Đoạn III. Hành động của giai đoạn này tùy thuộc vào kết quả của hai giai đoạn I và II. Khái niệm căn bản của giai đoạn III là giữ vững và tăng cường thêm những gì đã đạt được trong hai gian đoạn trước. Một điểm đáng nhắc ở đây, là cộng sản đã được thông báo về cuộc ngưng bắn trước ngày 27 tháng 10, 1972 (lần đề nghị đầu tiên giữa Hoa Kỳ và CSBV). Ngày 10 tháng 10, 1972, chúng ta bắt được một tài liệu cho biết cấp lãnh đạo cộng sản ra lệnh cho quân đội họ sửa soạn lần cuối để chuẩn bị ngưng bắn. Tài liệu có rất nhiều chi tiết liên hệ đến các kế hoạch khác của cộng sản. Nhưng cho đến ngày 18 hoặc 19 tháng 10, phía VNCH mới nhận được thông báo về ngày tháng của cuộc ngưng bắn. Dĩ nhiên VNCH không có chọn lựa nào hơn là từ chối ký bản hiệp định. Kế hoạch chiếm đất giành dân của cộng sản, dù bị chúng ta vạch trần, được thực hiện như đã hoạch định. Vào ngày ngưng bắn, CSBV vi phạm hơn 1000 lần các điều khoản trong hiệp định.
Giống như sau ngày ký hiệp định 1954, cộng sản tuyên truyền kêu gọi quân cán chính VNCH theo về phía họ. Cộng sản tuyên truyền là đất nước đã hòa bình, và họ là những người yêu chuộng hòa bình. Những làng xã không chịu hợp tác hay theo cộng sản thì bị hăm dọa tấn công hay pháo kích. Trên toàn cõi miền Nam có hơn 400 đơn vị hành chánh bị cộng sản chiếm đóng. Cộng sản tổ chức nhiều buổi hội họp tuyên truyền ở Bình Định và Quảng Ngãi; đóng chốt và ngăn chận lưu thông trên các thông lộ chính của VNCH. Đi đến đâu, cộng sản treo cờ đến đó, rồi yêu cầu ủy ban ICCS ghi vào hồ sơ, cho đó là vùng đất của họ. Những hoạt động chiếm đất giành dân của CSBV được thi hành một cách mãnh liệt trên toàn lãnh thổ VNCH.
Hoạt động trung bình hàng tháng của cộng sản gia tăng nhiều trong năm 1973. Năm 1972 là năm phản công của cộng sản và mức độ hoạt động hàng thàng của họ là 2.072 vụ; năm 1973 có đến 2.980 hoạt động hàng tháng. Nhưng những hoạt động tấn công xâm nhập của CSBV đã gặp sức phản cự mạnh của quân đội VNCH. Khi một làng bị tấn chiếm, chúng ta phản công lấy lại; khi lộ giao thông bị đóng chốt, chúng ta giải tỏa. Tương tự như khi cộng sản treo cờ của họ để giành đất, chúng ta kéo xuống và dương cờ ta lên... rồi ủy ban ICCS được mời đến giải quyết. Hai bên cố gắng chứng minh phần đất của mình chiếm đóng dựa vào màu cờ treo trên đất với một ủy ban kiểm soát đang bỡ ngỡ, chưa biết đâu là đâu. Nhưng tất cả là lỗi của phía cộng sản vì họ đã bắt đầu cuộc tranh giành, phía VNCH chỉ tự vệ một cách minh chánh để bảo toàn lãnh thổ.
Cửa Việt, Sa Huỳnh, Hồng Ngự, Trung Nghĩa, và Tống Lê Chân.
Trong năm 1973, ngoài những hoạt động trong kế hoạch chiếm đất giành dân như nói trên, CSBV đã dùng quân cấp sư đoàn để tấn công chúng ta qua bốn vi phạm quan trọng sau ngày hiệp định được ký kết. Ba trong bốn cuộc tấn công này có mục đích đánh chiếm các vị trí chiến lược để dùng như một nơi tiếp chuyển quân và binh cụ trong tương lai.
Vào buổi chiều trước ngày ngưng bắn, Thủy Quân Lục Chiến VNCH tấn công vào căn cứ hải quân Cửa Việt. Cuộc tấn công này nhằm ngăn ngừa CSBV cơ hội tấn công quân chúng ta đóng dọc theo vùng phi quân sự. Quân VNCH tấn công để có vị trí quan sát thuyền bè của CSBV ra vào Đông Hà và để chúng ta có đường thủy giao thông với tỉnh Quảng Trị. Dù có sự yểm trợ bằng không và hải lực Hoa Kỳ, TQLC gặp kháng cự mạnh khi tiến chiếm mục tiêu dọc theo bờ biển. Tuy nhiên vài giờ trước khi cuộc ngưng bắn có hiệu lực, quân ta chiếm được căn cứ Cửa Việt. Tám Giờ sáng ngày 28 tháng 1, 1973 khi cuộc ngưng bắn có hiệu lực, ủy ban ICCS vẫn chưa có mặt. Đến ngày 30, cộng quân tập trung nhiều đơn vị lớn, phối hợp với xe tăng và pháo binh, tấn công quân ta với ý định chiếm lại Cửa Việt. Mặt dù Thủy Quân Lục Chiến đã chiến đấu can đảm cố giữ vị trí, hỏa lực cuả địch buộc quân ta rút về vị trí cũ. Trong trận này Thủy Quân Lục Chiến mất hai đại đội và một chi đoàn thiết giáp. Phía cộng sản chết khoảng 1.000 quân để lấy lại mục tiêu.
Sa Huỳnh là một căn cứ của Việt Minh trong thời chiến 1945-1954. Là một cửa khẩu gần biển, với khoảng 3,000 dân, Sa Huỳnh được xử dụng như một điểm chuyển vận quan trọng từ biển vào đất liền, dọc theo các dãy núi nối liền tây nguyên. Các dãy núi này cũng là ranh giới của Quân Đoàn I và II. Ngày 26 tháng 1, 1973, đơn vị của sư đoàn 2 CSBV bắt đầu gây áp lực ở Sa Huỳnh và một căn cứ hỏa lực gần đó. Ngày 28 quân địch áp đảo và tràn ngập căn cứ hỏa lực nói trên. Ngày 29 cộng sản tấn công quận Đức Phổ ở phía bắc. Lập tức, sư đoàn 2 của chuẩn tướng Trần Văn Nhựt phản công. Cuộc phản công của QLVNCH mãnh liệt và cương quyết. Ngày 16 tháng 2, 1974 chúng ta lấy lại Sa Huỳnh và căn cứ hỏa lực. Hai bên thiệt hại nặng trong cuộc tấn công và phản công này.
Thành viên cộng sản trong Ủy Ban Quân Sự Bốn Bên ở Saigon lập tức yêu cầu một cuộc điều tra. Tất cả thành viên của ICCS công nhận Sa Hùynh là lãnh thổ của VNCH. Nhưng đáng tiếc, cuộc điều tra và quyết định về Sa Huỳnh là quyết định duy nhất của ICCS về cuộc ngưng bắn ở Việt Nam từ sau ngày 28 tháng 1, 1973, cho đến khi VNCH thất thủ. Sau khi kết thúc cuộc tường trình về Sa Hùynh, đại diện của Ba Lan ở Đà Nẵng bị chính phủ của ông ta giải nhiệm.
Quận lỵ Hồng Ngự của tỉnh Kiến Phong nằm vắt ngang sông Bassac, cách biên giới Cam Bốt chừng tám cây số. Với vị trí như vậy, Hồng Ngự nằm ở một vị trí tiện lợi cho việc ngăn chận cửa ngõ xâm nhập của cộng sản từ Cam Bốt vào Việt Nam theo ngã sông Bassac. Tháng 3 năm 1973, sư đoàn 1 CSBV tấn công Hồng Ngự với ý định chiếm vị trí này để có thể dùng nơi đó làm hậu cứ đóng quân và tiếp tế cho hai mặt trận ở miền Nam và Cam Bốt. Tuy nhiên cuộc tấn công của CSBV bị sư đoàn 9 của VNCH chận đứng khi họ đẩy lui quân địch ngược về biên giới Cam Bốt.
Tháng 6, 1973, sư đoàn F-10 của CSBV bất ngờ tấn công chiếm Trung Nghĩa, một làng đông dân nằm khoảng 10 cây số về hướng tây của tỉnh Kontum. Tuy nhiên sau một cuộc phản công mãnh liệt và gian khổ kéo dài ba tháng, vào tháng 9 cùng năm, quân đội chúng ta lấy lại Trung Nghĩa. Thiệt hại hai bên rất nặng ở mặt trận này.
Căn cứ Tống Lê Chân là một tiền đồn nằm gần biên giới thuộc vùng III chiến thuật. Tống Lê Chân nằm ngay đường tiếp liệu của Chiến Khu C ở giữa hai tỉnh Bình Long và Bình Dương. Với vị trí như vậy, căn cứ gây nhiều cản trở cho vấn đề di chuyển và tiếp tế của CSBV. Để giải quyết sự khó khăn đó, ngày 25 tháng 3, 1973, cộng quân bắt đầu mở cuộc tấn công để làm áp lực buộc quân trú phòng Tống Lê Chân di tản. Tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng đơn vị phòng thủ Tống Lê Chân bị cô lập khi mọi liên lạc với bên ngoài bị cắt đứt: quân trú phòng không còn có thể nhận đồ tiếp tế bằng đường bộ hay có thể hoạt động ngoài chu vi của căn cứ. Những cuộc tiếp tế bằng trực thăng càng lúc càng khó khăn vì áp lực phòng không của địch bố trí chung quanh căn cứ. Tiếp tế được thực hiện bằng cách thả dù. Trong 16 tuần bao vây Tống Lê Chân, địch quân đã pháo kích 300 lần, bắn vào vòng đai hơn 10 ngàn qủa đạn. Cũng trong 16 tuần, CSBV tấn công 20 lần: 11 lần bằng bộ binh; 9 lần bằng đặc công. Song song với pháo kích và tấn công, cộng quân tuyên truyền kêu gọi quân đồn trú đầu hàng hoặc di tản khỏi căn cứ. Nhưng trong 4 tháng, mọi kế hoạch tấn công hay tuyên truyền của CSBV đều bị quân trú phòng đánh bại. Ngày 11 tháng 4, 1974, biết không còn hy vọng giữ được căn cứ lâu hơn, tiểu đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng phá vòng vây và rút về An Lộc. Để vinh danh sự chiến đấu can trường của đơn vị, trung tá Lê Văn Ngôn, chỉ huy trưởng tiểu đoàn, được thăng cấp trước ngày thâm niên quân vụ. (2)
Những Chuẩn Bị Quân Sự của Cộng Sản
Quân chánh quy của CSBV bị thiệt hại nặng trong cuộc tổng tấn công vào năm 1972. Cùng lúc, hạ tầng cơ sở của các lực lượng địa phương, du kích quân của cộng sản vẫn chưa hoàn phục lại những thiệt hại trong cuộc tổng công kích năm Mậu Thân 1968. Đầu năm 1973, CSBV có lực lượg và quân số ở miền Nam như sau:
Vùng I: Tác Chiến: 79.450; Hậu Cần: 35.240; Du Kích: 5.928. Tổng số quân này được đến từ 6 sư đoàn bộ binh; 1 sư đoàn phòng không; và các đơn vị biệt lập gồm 3 trung đoàn đặc công; 6 trung đoàn pháo binh dã chiến; 12 trung đoàn phòng không; và 2 trung đoàn chiến xa.
Vùng II: Tác Chiến: 31.200; Hậu Cần: 18.500; Du Kích: 11.017. Gồm 3 sư đoàn bộ binh; 5 trung đoàn bộ binh biệt lập; 1 trung đoàn đặc công; 1 trung đoàn chiến xa; và 2 trung đoàn pháo binh dã chiến.
Vùng III: Tác Chiến: 27.300; Hậu Cần: 17.315; Du Kích: 10.730. Gồm 2 sư đoàn bộ binh; 1 sư đoàn đặc công; và sư đoàn pháo binh dã chiến; 8 trung đoàn bộ binh biệt lập; 2 trung đoàn đặc công; 2 trung đoàn pháo binh dã chiến; và 1 trung đoàn chiến xa.
Vùng IV: Tác Chiến: 29.050; Hậu Cần: 14.065; Du Kích: 13.325. Gồm 2 sư đoàn bộ binh; và 11 trung đoàn bộ binh biệt lập.

Nhìn chung chúng ta thấy CSBV có hơn 293 ngàn quân, tương đương 17 sư đoàn đến từ 62 trung đoàn biệt lập. Ngay sau ngày ngưng bắn CSBV lập tức phát triển khả năng tác chiến cuả các lực lượng chính quy và địa phương. Quân chính quy thì được gia tăng hỏa lực và di động; quân điạ phương thì được tái trang bị và tái huấn luyện. Các cơ cấu du kích quân cũng được nới rộng ra. Trong thời gian này, tình báo của VNCH khám phá các đội phòng không biệt lập ở miền Bắc được phối trí thành cấp số sư đoàn và trung đoàn phòng không, trang bị vũ khí từ hỏa tiễn SAM-2, SAM-3 (hỏa tiển địa không), cho đến súng phòng không 37 ly và 100 ly. Dọc theo miền duyên hải, các lực lượng phòng thủ của CSBV được trang bị hỏa tiễn SAMLET, một loại hỏa tiễn địa không mới do Nga cung cấp.
Ở miền Nam, nỗ lực tái trang bị của CSBV rõ ràng hơn về phương diện pháo binh dã chiến, đại đội phòng không và hệ thống radar. Từ khi ngưng bắn cho đến ngày thất thủ, CSBV tăng viện cho chiến trường miền Nam thêm 21 trung đoàn phòng không trang bị súng với nhiều tầm bắn với một hệ thống radar có thể kiểm soát được không phận ở quân khu I và một số không phận của quân khu II và III. Một loại hỏa tiễn tầm nhiệt địa không có tên là SA-7 tăng tầm hoạt động từ 9,000 lên 15.000 bộ (5 cây số). Về pháo binh dã chiến, CSBV có tất cả 430 đại bác loại 122 ly và 130 ly do Nga chế tạo. Quân đội VNCH ở vùng II và III phải đương đầu với hỏa lực pháo binh mới của cộng quân.
Hà Nội cũng đem vào miền Nam nhiều loại chiến xa mới. Trong tổng số 655 chiến xa có mặt ở chiến trường miền Nam, nhiều loại được đưa vào thử nghiệm lần đầu tiên như chiến xa làm cầu MT-54 và MT-34; thiết vận xa BTR-152; Không pháo ASU-75; đại pháo kéo trên xe xích M2; đại bác nòng ngắn 152 ly loại D2; và súng chống chiến xa 100 ly T12. Tình báo chúng ta còn nhận được tin CSBV có thêm nhiều loại vũ khí tối tân khác nhưng chưa kiểm chứng được, như chiến xa T-60 loại trung và hỏa tiễn địa không tầm nhiệt trang bị trên dàn phóng. Thực phẩm đóng hộp mới nhất của Trung Cộng đã được đưa đến tay quân CSBV ở miền Nam. Du kích và các lực lượng địa phương bây giờ được trang bị vũ khí tối tân hơn như B-40, B-41, AK-47 và súng cối.
Nổ lực tái trang bị các lực lượng tổng trừ bị là cố gắng tiêu biểu nhất của CSBV. Hà Nội rút các sư đoàn 312, 308, 320B từ Quảng Trị, và sư đoàn 316 từ Lào, trở về Bắc. Với các sư đoàn 308, 316B, và 968 ở Lào, và sư đoàn 341 đang được bổ sung, chúng ta biết cộng sản có ít nhất là 7 sư đoàn tổng trừ bị. Cuối năm 1974 CSBV hoàn tất thành lập hai quân đoàn có bộ chỉ huy nằm tại vùng I và vùng II của VNCH.(3) Thêm vào đó CSBV còn thành lập vài sư đoàn phòng không mới như sư đoàn 671, 673, 675, 679. Nằm dưới quyền chỉ huy trực tiếp của các tư lệnh mặt trận ở miền Nam là các đơn vị mới như trung đoàn xe tăng M26; sư đoàn 75 pháo binh; sư đoàn 377 phòng không; sư đoàn 5 công binh; và sư đoàn 27 đặc công. Binh đoàn vận tải 559 từ Lào được đưa vào đặt bản doanh ở miền Nam với bốn sư đoàn cơ hữu là 471, 472, 473, và 541.
Tất cả các trung đoàn độc lập ở miền Nam được phối trí vào cấp sư đoàn. Thí dụ như trung đoàn 33 và 274 thuộc về sư đoàn 3 ở Vùng III; các trung đoàn 24, DT1 và 207 thuộc về sư đoàn 6; và hai trung đoàn Z15 và Z18 nằm dưới quyền xử dụng của sư đoàn 8.
Cộng sản đã không rêu rao khi họ tuyên bố ở hội nghị trung ương đảng thứ 21 là lực lượng quân sự của họ lúc đó mạnh nhất kể từ năm 1954. Miền Bắc vẫn tiếp tục bổ xung chế độ quân dịch của họ với lớp thanh niên rất trẻ. Theo ước lượng, có khoảng 200 ngàn cán binh CSBV xâm nhập vào Nam kể từ khi ngưng bắn. CSBV chỉ gặp khó khăn khi họ muốn xây dựng lại nhân sự của hạ tầng cơ sở địa phương khoảng 100 ngàn người như đã có được, trước cuộc tấn công Mậu Thân 1968.
Cộng Sản Bắc Việt có một hệ thống tiếp liệu đầy đủ để cung ứng cho đoàn quân xâm lăng của họ. Năm 1973 cộng sản nới rộng hệ thống đường tiếp tế dọc theo hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào. Từng hàng đoàn xe tiếp tế, đôi khi lên đến 200 chiếc, hoạt động giữa ban ngày, xâm nhập người và quân dụng vào Nam. Đến năm 1974, CSBV phát triển các nhánh đường xâm nhập Hồ Chí Minh sâu xuống miền phía nam hơn. Trước đây các con đường chạy hướng bắc-nam trong hệ thống đường xâm nhập Hồ Chí Minh ngừng ở nội địa Lào hay Cam Bốt; bây giờ các nhánh đường này đã nằm bên trong lãnh thổ VNCH, một đoạn đường dài 900 cây số từ đầu dãy Trường Sơn ở vĩ tuyến 17 cho đến tỉnh Tây Ninh. Nằm chung với hệ thống đường xâm nhập là các con đường ngang nối miền duyên hải vào con đường xâm nhập chính. Tuy nhiên các con đường phụ này không xử dụng được vào mùa mưa: cộng sản dùng cầu tiền chế thay cho các cầu gỗ bị nước cuốn trôi vào mùa nước lũ. Để đạt được mục đích phát triển đường xâm nhập vào tận lãnh thổ VNCH, CSBV tấn công và triệt tiêu tất cả các căn cứ biên phòng nằm trên lộ trình tiến quân của họ về miền tây nguyên. Các căn cứ biên phòng như Bu Bong, Bu Prang, Plei-D'jereng và Pleime đều bị tấn công. Các căn cứ nằm ở phía bình nguyên như Mang Buk, Dak Pek, Plateau Gi, Gia Vực cũng bị tràn ngập khi kế hoạch xâm nhập của CSBV tiến dần về miền duyên hải.
Cộng Sản Bắc Việt có một hệ thống ống dẫn dầu, đầy đủ với máy bơm và kho chứa dầu to lớn, chạy dài từ khu phi quân sự đến tận phía tây của tỉnh Quảng Đức. CSBV cũng xây nhiều nhà kho, nhà tiền chế, ở những phi trường bỏ hoang của VNCH. Sau ngày ngưng bắn, CSBV có trong tay 7 phi trường loại "nhẹ" và 8 loại "trung bình" ở miền Nam. Hai trong số các phi trường nói trên có thể cải biến cho phản lực chiến đấu cơ.
Tóm lại, với các cố gắng và thành quả của CSBV trong kế hoạch phát triển các hệ thống đường xâm nhập, CSBV có đủ quân nhu dùng cho một cuộc tấn công kéo dài 18 tháng, tương tự như cuộc tấn công qui mô của năm 1972. Với hệ thống vận chuyển hữu hiệu đó, quân xâm nhập từ Bắc vào Nam bây giờ chỉ cần có ba tuần, thay vì bốn tháng như trước.
Chiến Lược và Kế Hoạch của Cộng Sản
Cuộc chiến tranh dai dẳng ở Việt Nam làm hao tổn hai miền Nam, Bắc rất nhiều. Nhưng CSBV thiệt hại nhân mạng nhiều hơn. Trong cuộc phỏng vấn với một ký giả người Ý, Võ Nguyên Giáp thú nhận CSBV chết hơn 500 ngàn quân cho cuộc chiến. Cán binh CSBV, dù được nhồi sọ ý thức hệ lâu dài, dù được cán bộ chính trị kiểm soát và rèn luyện bởi kỷ luật đảng, vẫn ước mong một nền hoà bình thật với hy vọng được trở về với gia đình. Tài liệu từ tù binh và cán binh ra đầu thú cho thấy lính và cán bộ cộng sản rất nóng lòng khi nghe tin ngưng bắn sẽ được thực hiện vào ngày 28 tháng 10, 1972. Họ chăm chú theo dõi hai đài phát thanh VOA (Voice of America) và BBC (British Broadcasting Corporation) rồi bàn tán về viễn ảnh họ sẽ được trở về miền Bắc. Và họ không giấu được nỗi thất vọng khi ngày ngưng bắn 28 tháng 10 bị đình lại.
Khi hiệp định Paris được ký kết, Trung Ương Cục Miền Nam phổ biến huấn lệnh số 2/73. Huấn lệnh này cung cấp chi tiết hướng dẫn cách tuyên truyền cho cán bộ đảng và dân quân CSBV. Theo huấn lệnh 2/73, hiệp định Paris là một dấu mốc của lịch sử, của thời điểm chiến thắng của người CS ở miền Nam. Tuy nhiên, hiệp định Paris không chấm dứt cuộc đấu tranh mà chỉ tạo ra một hoàn cảnh nửa chiến tranh nửa hoà bình, trong đó mọi đấu tranh chính trị đi trước đấu tranh quân sự.
Trong hai tháng 3 và 4, 1973, CSBV đưa vào nam hai toán tuyên truyền do Văn Tiến Dũng và Tố Hữu một ủy viên bộ chính trị cầm đầu. Toán tuyên truyền giải thích cho cán binh CSBV trong nhiều buổi hội thảo chính trị là, hiệp định Paris chỉ là một giai đoạn nghỉ mệt trong cuộc chiến đánh chiếm miền Nam; và việc ký hiệp định là một thế của chiến thuật vừa đánh vừa đàm. Đảng cộng sản lúc nào cũng có một "cách nói" cho mọi tình thế chính trị. Cách nói sau ngày ngưng bắn là họ kêu gọi ba thành phần chánh phủ và quân đội chuẩn bị cho mọi trường hợp.
Trong đảng cộng sản có hai ý kiến trái ngược nhau về thái độ và ý niệm khi họ học tập và tuyên truyền hiệp định Paris 1973. Ý kiến thứ nhất là coi hiệp định Paris như là một giải pháp hòa bình dùng để giải quyết vấn đề Việt Nam. Ý kiến thứ hai biện hộ tiếp tục cuộc chiến, cho rằng chỉ cần quân sự thôi là có thể đem lại được chiến thắng tuyệt đối cuối cùng. Hai thái độ được đảng cộng sản phân tích kỹ qua huấn lệnh số 3/73 ban hành đầu tháng 4, 1972. Huấn lệnh kết luận: cán bộ cộng sản phải tin vào đường lối của đảng với chiến lược uyển chuyển; và tình trạng sau ngày ngưng bắn là tình trạng "hòa bình trong chiến tranh" một giai đoạn cộng sản có thể lợi dụng các khiếm khuyết về luật lệ trong các điều khoản của hiệp định. Với một bộ máy tuyên truyến hữu hiệu và khả năng nhồi sọ tư tưởng chính trị, cộng sản tìm cách dung hòa hai thái độ ở các cấp thấp nhất. Cán bộ và lính ở hạ tầng cơ sở được lệnh học tập những kết luận của huấn lệnh.
Tháng 5 năm 1973 tình báo VNCH nhận được tin tức từ một cuộc hội thảo của các cán bộ trung cấp tỉnh ủy. Trong buổi thảo luận này CSBV đi đến kết luận là họ có thể đánh bại VNCH qua một cuộc tấn công kiểu tốc chiến (blitzkrieg) như họ đã thực hiện vào năm 1968. Trong các cuộc hội thảo này, nếu để ý, chúng ta sẽ thấy CSBV không còn đề cập đến những từ ngữ như đấu tranh chính trị.
Ở một cuộc hội thảo khác vào tháng 7, 1973, cán bộ cộng sản cũng đi đến kết luận là, "Nếu chính phủ VNCH không thực thi điều khoản của hiệp định Paris như tham dự vào một chánh phủ liên hiệp, chúng ta [cộng sản] sẽ có khả năng phát động một chiến dịch tổng nổi dậy tổng phản công." Một cán bộ thuộc tỉnh ủy Lâm Đồng ra hồi chánh và tiết lộ kế hoạch phản công mới ở miền Nam của cộng sản: giới lãnh đạo cộng sản đang dự tính những cuộc tấn công chiến lược vào Huế và Đà Nẵng ở Vùng I. Lời khai của người hồi chánh được kiểm chứng qua nhiều tin tức khác. Tin tức cho chúng ta biết thêm phi công của CSBV đang gia tăng thực tập và huấn luyện. Không ảnh chụp ở Lào cho thấy CSBV dựng một phi trường giả, giống như phi trường Đà Nẵng, với tất cả chi tiết tương tự để thực tập tấn công. Tuy nhiên, người cán bộ hồi chánh nói trên nhấn mạnh là cuộc tấn công chỉ có thể xảy ra với sự đồng ý của Nga và Trung Cộng như họ đã cho phép hai cuộc tấn công vào năm 1968 và 1972. Một trùng hợp xảy ra trong thời gian này: Vào hai tháng 8 và 9 năm 1973, thủ tướng Phạm Văn Đồng và bí thư Lê Duẩn có thăm viếng Nga và Trung Cộng.
Thời gian sau ngưng bắn là thời gian cộng sản ở miền Nam dồn mọi nỗ lực để xây dựng và phát triển sức mạnh, chuẩn bị cho các chiến dịch trong tương lai. Trong một cuộc phỏng vấn với báo chí, chủ tịch MTGPMN Nguyễn Hữu Thọ cho biết MTGPMN không dự định một cuộc tổng công kích nào, nhưng mặt trận có khả năng về cơ sở và nhân sự để thực hiện kế hoạch đó nếu cần. Trong một bài phát thanh đánh đi vào ngày 15 tháng 10, 1973, CSBV tuyên bố lực lượng võ trang và quân đội cộng sản sẽ đánh bại mọi cuộc tấn công của VNCH. Cùng lúc, huấn lệnh số 4/73 của Trung Uơng Cục Miền Nam (TƯCMN) ghi rõ kế hoạch tấn chiếm từng điểm, nắm giữ từng phần nhỏ của chiến thắng, trên đường tiến về chiến thắng sau cùng. Huấn lệnh này cho phép các lực lượng cộng sản có thể vừa đánh vừa tuyên truyền; hoặc tuyên truyền trước rồi tấn công sau.
Để năng cao tinh thần chiến đấu của cán binh cộng sản tại miền Nam, vào tháng 12 hoặc đầu tháng 1 năm 1974 TƯCMN cho lưu hành quyết nghị số 12. Quyết nghị này dựa vào bản phúc trình của lần họp thứ 21 của trung ương đảng cộng sản. Cả hai văn kiện tuyên bố lực lượng của cộng sản ở miền Nam chưa bao giờ mạnh hơn về quân sự cũng như chính trị từ năm 1954. Quyết nghị kêu gọi cán binh tiếp tục chiến đấu tại chổ theo chiến thuật "hòa bình trong chiến tranh," trong khi giả bộ tuân theo các điều khoản ghi trong hiệp định Paris. Tuy nhiên, "chiến đấu tại chổ" được định nghĩa như những cuộc tấn công có hỗ trợ của "quân đội," nhắm vào các địa điểm phòng thủ chắc như quận lỵ, bộ tư lệnh khu chiến thuật, các hậu cứ của tiểu đoàn, trung đoàn, hay bản doanh của sư đoàn. Về mặt chính trị, cộng sản nhấn mạnh vào việc củng cố hạ tầng cơ sở như đã nói trên. Quyết nghị số 12 của TƯCMN là văn kiện căn bản hướng dẫn mọi hoạt động của cộng sản trong suốt năm 1974.
Cuối năm 1973 cộng sản bắt đầu khởi xướng các chiến dịch triệt hạ các tiền đồn và căn cứ ở các nơi hẻo lánh của VNCH. Từng căn cứ một bị triệt tiêu, hoặc quân phòng thủ phải di tản trước áp lực quá mạnh của địch. CSBV tiếp tục kế hoạch tấn công sang năm 1974. Lúc đầu là các cuộc tấn công bằng cấp trung đoàn, kế đến là cấp sư đoàn với sự hỗ trợ của các đơn vị pháo binh, thiết giáp và phòng không. Căn cứ Lệ Minh (Plei D'jereng) là căn cứ đầu tiên bị thất thủ vào tháng 9, 1973. Tiếp theo là căn cứ Ngọc Bảy ở Kontum, rồi căn cứ núi Bạch Mã ở Đà Nẵng. Vào tháng 11 cùng năm, hai cứ điểm Dak Song và Kiên Đức bị tràn ngập. Trừ căn cứ Kiên Đức được trung đoàn 45 của chúng ta lấy lại một tuần sau, tất cả các căn cứ nói trên hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của địch quân.
Về phía VNCH. Một mặt chúng ta ngăn chận kế hoạch chiếm đất giành dân của cộng sản, mặt khác chúng ta thúc đẩy chương trình bình định nông thôn. Nhưng về vấn đề phòng thủ các tiền đồn hay trại biên phòng thì là một vấn đề khác: tổng thống Thiệu ra lệnh quân trú phòng không được di tản dưới áp lực của địch, và căn cứ phải được giữ bằng mọi giá. Và như chúng ta đã thấy, quân lệnh của tổng thống Thiệu có ý nghĩa về phương diện chính trị, nhưng bất lợi về phương diện quân sự. Địch quân tấn công các tiền đồn hay căn cứ biên phòng đó rất dễ với số quân đông hơn năm, sáu lần, và với hoả lực yểm trộ hùng hậu, họ có thể đè bẹp quân trú phòng rất dể dàng. Càng cố gắng bảo vệ các căn cứ ở xa, chúng ta càng hy sinh nhiều nhân sự có thể dùng để phòng thủ ở những nơi khác. Khi cố gắng bảo vệ và tử thủ ở các tiền đồn, chúng ta hy vọng vào các điều khoản của hiệp định Paris được thực thi rõ rệt: Giữ các đồn bót ở những nơi hẻo lánh đó để chúng ta chứng minh cho các quan sát viên quốc tế biết giới hạn của lãnh thổ VNCH. Hơn nữa, nếu chúng ta bỏ rơi các căn cứ này, chúng ta sẽ giao cho cộng quân rất nhiều đất đai của lãnh thổ quốc gia.(4)
Ở vùng I vào đầu tháng 7 năm 1974, cộng quân bắt đầu tăng cường áp lực với các đơn vị như sư đoàn 304B và 711, và Mặt Trận 44 (mặt trận này có quân số tương đương với 11 tiểu đoàn bộ binh). Chủ đích của CSBV là bao vây trung tâm huấn luyện Biệt Động Quân Dạ Trạch nằm ở quận Thường Đức, và các đồn bót nằm trong thung lũng Quế Sơn. Mục tiêu chánh của CSBV là vùng đồng bằng miền duyên hải của tỉnh Quảng Nam. Áp lực của cộng quân là một mối quan tâm cho thành phố Đà Nẵng nói riêng và quân đoàn I nói chung. Đối diện với áp lực của CSBV là sư đoàn 3 bộ binh của QLVNCH, đang cố gắng cản bước tiến của địch. Để đối phó, quân đoàn I tăng viện thêm hai lữ đoàn Nhảy Dù, hai trung đoàn bộ binh và hai liên đoàn Biệt Động Quân. Mặt trận Thường Đức kép dài đến tháng 11 khi quân đội VNCH làm chủ tình hình, đẩy lùi cộng sản ra khỏi vùng đồng bằng của miền duyên hải. Cũng trong thời gian trên, khi áp lực và các cuộc tấn công của cộng quân đạt đến cường độ cao nhất vào tháng 9, cộng quân cũng mở một cuộc tấn công song song ở Thừa Thiên, với ý định cắt ngang quốc lộ 1 ở giữa Huế và Đà Nẵng. Lực lượng CSBV ở mặt trận này gồm 3 trung đoàn của sư đoàn 324B.
Trong khi đó, ở phía nam của Vùng I, lữ đoàn 52 (có bổ sung) CSBV tấn công và tràn ngập trại Biệt Động Quân biên phòng Gia Vực và quận Minh Long. Trong sáu tháng cuối của năm 1974, hai sư đoàn 1 và 2 của VNCH, với vùng trách nhiệm riêng biệt, đẩy lui địch quân và bình thường hóa tình hình chiến sự ở Vùng I. Qua những trận đánh khốc liệt của sáu tháng đó, hai bên địch và ta tổn thất rất nặng, với mức thương vong hơn 15 ngàn người mỗi bên.(5)
Ở Vùng II cộng sản bắt đầu xây đường vận chuyển hai chiều về hướng đông, tách ra khỏi hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh chạy theo hướng bắc nam. Một con đường nằm ở hướng bắc của tỉnh Kontum; một con đường khác nằm ở phía nam tỉnh Pleiku. Khi hoàn tất hai con đường này sẽ nối liền với quốc lộ 19, ở hướng đông của Pleiku. Kế hoạch xây đường này của cộng sản là để cắt ngang hai tỉnh Kontum và Pleiku, cũng như cô lập bản doanh của Quân Đoàn II đóng tại Pleiku. Nhưng căn cứ biên phòng 711 của VNCH ở phía nam Pleiku cản trở kế hoạch hoàn tất hệ thống đường chuyển vận này của cộng sản. Tháng 4, 1974, hai trung đoàn của sư đoàn 320 CSBV tấn công tiền đồn 711. Tháng 5, 1974, với sự yểm trợ của hai liên đoàn BĐQ, sư đoàn 22 bộ binh đẩy lui địch quân và phá vỡ kế hoạch xây đường của cộng sản. Tiếp theo sau, vào cuối hè đầu thu của năm, sư đoàn 3 CSBV, hoạt động tại tỉnh Bình Định, cắt đứt quốc lộ 1 ở phía nam của ba tỉnh thuộc Vùng I, gây áp lực cho căn cứ không quân Phù Cát. Sư đoàn 22 bộ binh phải di chuyển từ Pleiku xuống Bình Định để tiếp ứng cho hai liên đoàn BĐQ cơ hữu của tỉnh. Đến cuối năm 1974 quân đội ta hoàn toàn khai thông quốc lộ 1, đầy lùi quân CSBV trở ngược lại thung lũng An Lão.
Ở Vùng III chúng ta lấy lại được quận Đức Huệ thuộc tỉnh Hậu Nghĩa sau khi tiểu đoàn BĐQ phòng ngự của quận lỵ bị thất thủ. Tháng 6, 1974, địch quân mở ba cuộc tấn công cùng lúc vào ba cứ điểm An Điền, Căn Cứ 82, và Rạch Bắp nằm ở phía tây của tỉnh Bình Dương. Trận đánh chiếm lại các cứ điểm này rất ác liệt và hao tổn. Với lợi điểm về pháo binh và đạn dược, địch dụ cho quân ta tiến vào các mục tiêu đã được chấm tọa độ trước, rồi tập trung hỏa lực pháo binh triệt hạ quân ta. Sau cùng, xử dụng hệ thống phản pháo và các toán xung kích, chúng ta áp đảo được các ổ pháo của địch và chiếm lại các cứ điểm nói trên.
Trong khi đó, ở miền đồng bằng sông Cửu Long, quân đội chúng ta trên đà phản công. QLVNCH mở một cuộc hành quân qui mô đánh vào vùng Trị Tháp từ lâu đây là một căn cứ của Việt cộng ở Đồng Tháp Mười, nơi giáp ranh của ba tỉnh Kiên Giang, An Xuyên và Chương Thiện. Địch quân chống trả mạnh khi chúng ta đánh vào mật khu của họ. Ở Vùng IV, ba sư đoàn bộ binh cơ hữu của vùng luôn bận rộn với các cuộc hành quân, hoặc hỗ trợ các đơn vị của Nghĩa Quân và Địa Phương Quân. Hai lực lượng Nghĩa Quân và Địa Phương Quân của Vùng IV, trong một thời gian dài, tỏ ra mất hiệu lực trước các cuộc xâm nhập và tấn công của cộng sản. Đây là một quan tâm lớn cho VNCH. Vì thiếu khả năng, các lực lượng địa phương đã để cho cộng sản chiếm nhiều làng xã ở các tỉnh Kiên Giang, An Xuyên và Chương Thiện. Sự khiếm khuyết của hai lực lượng này bắt nguồn từ sự yếu kém về tinh thần và quân số không đầy đủ ở các đơn vị. Để giải quyết những khuyết điểm trên, Bộ Tổng Tham Mưu mở một cuộc điều tra để tìm nguyên nhân. Tháng 11, 1974, cuộc điều tra đưa đến quyết định giải nhiệm trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi tư lệnh Vùng IV-Quân Khu IV. Thay vào đó, thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm tư lệnh quân khu. Bộ Tổng Tham Mưu giao cho vị tân tư lệnh một nhiệm vụ khẩn cấp là nâng cao tinh thần và khả năng chiến đấu của Địa Phương Quân và Nghĩa Quân. Tướng Nam đã hoàn tất nhiệm vụ một cách đáng khen thưởng. (6)   (Còn tiếp...)


Chú thích:
1. Chúng ta biết được tin tức này từ tài liệu tịch thu, thẩm vấn tù binh và hồi chánh, và tin tình báo (chú thích của tác giả).
2. Về chi tiết tất cả các vụ vi phạm quan trọng của CSBV trong năm 1973, và lực lượng quân sự của VNCH và CSBV, đọc thêm From Cease-fire to Capitulation (Center of military History, Washington, D.C., 1984) của William Le Gro, chương về năm 1973 (chú thích của dịch giả).
3. Hai quân đoàn đó là Quân Đoàn 2 và Quân Đoàn 4. Quân Đoàn 2 còn có tên là Binh Đoàn Hương Giang, thành lập ngày 17 tháng 5, 1974 tại Thừa Thiên, gồm các lực lượng cơ hữu: sư đoàn bộ binh 304, 324, 325; sư đoàn phòng không 673; lữ đoàn 203 xe tăng; lữ đoàn 164 pháo binh; lữ đoàn 219 công binh; trung đoàn 463 thông tin; và các đơn vị phục thuộc khác. Quân Đoàn 4 có tên là Binh Đoàn Cửu Long, thành lập ngày 20 tháng 7, 1974 tại miền đông nam bộ. Các đơn vị của quân đoàn này gồm sư đoàn 7, 9, trung đoàn 24 pháo binh, trung đoàn 71 phòng không, trung đoàn 429 đặc công và nhiều đơn vị trực thuộc. Đọc Từ Điển Bách Khoa Quân Sự Việt Nam, (Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội: 1996) (chú thích của dịch giả).
4. Đây là một trong "Bốn Không" do tổng thống Thiệu đề ra sau Hiệp Định Ba Lê, đó là: Không nhường đất cho cộng sản. Không liên hiệp với cộng sản. Không công nhận CS. Không trung lập hóa miền Nam. "Bốn Không" được coi như là một quốc sách mà tất cả các hoạt động chính trị và quân sự phải tuân theo (chú thích của tác giả).
5. Một trong những trận đánh đẩm máu ở mặt trận Thường Đức là trận Đồi 1062. Trong trận này lữ đoàn 1 và 2 Nhảy Dù đánh tan bốn trung đoàn 29, 31, 24, và 66 thuộc các sư đoàn 2, 324B và 304 của CSBV. Hai lữ đoàn Nhảy Dù của quân đội VNCH đã trả giá thật cao cho Đồi 1062: 500 tử thương và 2000 bị thương. phía cộng sản có hơn 2000 chết và 5000 bị thương. Ở điểm cao nhất của trận chiến, 6 tiểu đoàn Nhảy Dù đã thay phiên tấn chiếm mục tiêu này. Xem, William E. Le Gro, Vietnam from Cease-Fire to Capitulation, chương 11. Trương Dưỡng, Đời Chiến Binh, chương Trận Thường Đức: Đồi 1062. Về trận Sa Huỳnh, đọc Anh Hùnh Bạc Mạng của Trần Thy Vân, chương Sa Huỳnh Biển Lửa (chú thích của dịch giả).
6. Sau cuộc rút lui thất bại tại Cao Nguyên, tướng Nguyễn Văn Phú vào nằm ở tổng y viện Cộng Hòa, tướng Nghi tình nguyện làm tư lệnh bộ chỉ huy tiền phương Quân Đoàn III, để trấn giữ miền duyên hải còn lại. Bộ chỉ huy đóng trong căn cứ Không Quân Phan Rang (tư lệnh là chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang). Ngày 16 tháng 4, 1975, khi tỉnh Ninh Thuận và căn cứ Phan Rang thất thủ, hai tướng Nghi, Sang, và đại tá Nguyễn Thu Lương (Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù) được coi như mất tích (chú thích của tác gỉa).