Thursday 14 August 2014

Những Ngày Cuối Của VNCH


Nguyên Tác: The Final Collapse 
Của Đại Tướng Cao Văn Viên. 
Dịch Giả: Nguyễn Kỳ Phong





Chương 8: Phòng Thủ Phía Nam

Ngày 26 tháng 3, 1975, đại tướng Frederick Weyand, tư lệnh Lục Quân Hoa Kỳ đến Saigon. Tướng Weyand đã phục vụ tại Việt Nam một thời gian lâu, đảm trách nhiều chức vụ quan trọng. Ông là tư lệnh sư đoàn 25 BB; tư lệnh Quân Đoàn II Dã Chiến (II Field Force); rồi tư lệnh phó MACV; tư lệnh MACV khi đại tướng Creighton Abrams trở lại Hoa Kỳ làm Tư Lệnh Lục Quân. Ông lên thay đại tướng Abrams khi Abrams chết bất ngờ khi còn tại chức. Với sự quen thuộc ở Việt Nam như vậy, đại tướng Weyand được sự ưu ái của nhiều tư lệnh quân sự và chính trị gia Việt Nam.
Bộ Tổng Tham Mưu không thuyết trình hay hội họp chính thức với tướng Weyand, nhưng tác giả có trao đổi ý kiến riêng với tướng Weyand. Lúc nói chuyện, tác giả cho tướng Weyand biết những khó khăn quân đội VNCH đang gặp. Tác giả muốn Hoa Kỳ giúp một chuyện duy nhất: cho không quân Hoa Kỳ xử dụng pháo đài bay B-52 oanh tạc các địa điểm tập trung quân, và các mật khu dã chiến của CSBV đang được thiết lập vội vã trong chiến dịch đánh chiếm miền Nam. Pháo đài bay B-52 sẽ phục hồi tinh thần chiến đấu và niềm tin của dân quân VNCH. Nhưng tướng Weyand giải thích cho tác giả biết, từ khi có luật Case-Church Admendment, tất cả mọi can thiệp quân sự Đông Dương cần có sự ưng thuận của quốc hội Hoa Kỳ.(1) Với tình hình chính trị đang diễn ra ở Mỹ, ông không nghĩ quốc hội Hoa Kỳ sẽ cho phép quân đội trở lại hay can thiệp vào Việt Nam.
Sau đó phái đoàn quân sự của Weyand cùng đại sứ Graham Martin dự buổi họp chính thức với tổng thống Thiệu ở Dinh Dộc Lập. Trong buổi họp, phái đoàn Hoa Kỳ đề nghị những điểm sau:
Chính phủ phải giải thích cho dân chúng biết tình trạng của quốc gia để họ không bị hoang mang bởi những tuyên truyền của cộng sản. Các nhà lãnh đạo VNCH phải xuất hiện nhiều hơn trên hệ thống truyền thanh, truyền hình, để tăng niềm tin cho dân chúng.
Bộ Tổng Tham Mưu phải có nhiều quyền hơn ở những quyết định quân sự.
Quân đội VNCH cần đánh thắng một trận lớn hay nhỏ để cho phía ủng hộ VNCH ở Mỹ phấn khởi xin được ngân khoản quân viện phụ trội 300 triệu mỹ kim. Sư đoàn 5 CSBV đang đóng ở Mỏ Vẹt, hướng tây Đức Huệ, là mục tiêu tốt cho quân đội VNCH tấn công để tìm một chiến thắng.(2)
Vấn đề dân tị nạn phải được giải quyết. Nên chú trọng đến thân nhân và gia đình binh sĩ. Phải di tản họ ra khỏi vùng giao chiến, hay vùng đó có cơ nguy trở thành vùng giao chiến.
Vấn đề thuộc về chính phủ và dân tị nạn được tổng thống Thiệu và thủ tướng Khiêm bàn thảo với phái đoàn Hoa Kỳ.
Về đề nghị trao thêm quyền quyết định quân sự cho BTTM không được nói đến trong buổi họp vì sự tế nhị của vấn đề tổng thống Thiệu là người duy nhất có thể thay đổi chuyện đó nếu ông muốn cho BTTM thêm quyền quyết định về quân sự hay không.
Nhìn từ quan điểm quân sự, tác giả đồng ý quân đội VNCH cần đánh thắng một trận. Nhưng ngay trong lúc đó chúng ta không còn quân để tấn công sư đoàn 5 CSBV; chúng ta chỉ có thể chờ khi có cơ hội và nhân lực cho kế hoạch này. Tác giả cũng nhắc lại vấn đề cần xử dụng pháo đài bay B-52 đánh vào các điểm tập trung quân cộng sản; B-52 sẽ đem lại tinh thần cho dân quân miền Nam. Tác giả cho buổi họp biết quân đội VNCH đang xử dụng vũ khí gì để thay vào hỏa lực B-52: không quân Việt Nam dùng các thùng dầu phế thải, bom 250, 500 và 750 cân Anh để oanh tạc cộng sản. Về chuyện di tản gia đình thân nhân binh sĩ ra khỏi vùng hỏa tuyến: kế hoạch có lợi và hại không thể đoán được: tinh thần chiến đấu của binh sĩ có thể sa sút khi họ bị tách ra khỏi gia đình. Trong quá khứ, khi cộng sản tấn công miền Nam vào năm Mậu Thân, vợ con binh sĩ ở những tiền đồn xa đã hỗ trợ giúp đỡ, từ việc tải đạn cho đến xử dụng vũ khí, để chống lại cuộc tấn công của cộng sản. (Còn tiếp...)

Chú thích chương 8:
1. Tháng 8 năm 1973, nghị sĩ Frank Church và Clifford Case của Ủy Ban Ngoại Giao Thương Viện đưa ra dự luật Case-Church Admentmend cấm tất cả mọi can thiệp quân sự của Hoa Kỳ vào Đông Dương nếu không có sự ưng thuận của Quốc Hội Mỹ. Dự luật này được tổng thống Richard Nixon chuẩn y thành luật vào tháng 12 năm 1973 (chú thích của dịch giả).
2. Trở lại Hoa Kỳ , ngày 4 tháng 4, 1975, tướng Weyand trình cho tổng thống Ford đề nghị của ông về tình hình VNCH. Bản tường trình đề nghị Hoa Kỳ cần viện trợ thêm ít nhất là 722 triệu mỹ kim ngay lập tức để đương đầu với áp lực của cộng sản. Tướng Weyand nhấn mạnh trách nhiệm của Hoa Kỳ trong hiệp định Ba Lê 1973. Bản tường trình của Weynad viết rất chi tiết về tình hình Việt Nam. Cũng nên biết thêm, cùng đi với Weyand là hai nhân viên tình báo CIA ngoại hạng có nhiều kinh nghiệm ở Việt Nam: George Carver và Theodore Shackley. Shackey coi CIA ở Lào, rồi sau đó là Việt Nam; Carver là nhân viên CIA có liên hệ với vụ đảo chánh năm 1960, khi ông tham dự những buổi họp bí mật bàn kế hoạch đảo chánh của Hoàng Cơ Thụy và Vương Văn Đông. Bản tường trình của đại tướng Weyand được giải mật và lưu trữ ở Thư Viện Tổng Thống Gerald Ford, thuộc viện đại học Michigan (chú thích của dịch giả).

 (Tiếp theo Chương 8... )
Tái Bổ Sung và Trang Bị
Sau khi Ban Mê Thuột mất, tái phối trí quân ở Vùng II thất bại, các đơn vị tác chiến cơ hữu của quân đoàn bị phân tán. Quân đoàn mất 90% chiến cụ, vũ khí; các đơn vị chỉ giữ được 30% súng cá nhân M-16. Các đơn vị về từ Vùng II được tái phối trí, trang bị lại như sau:
Sư đoàn 23 BB tập họp lại ở Động Ba Thìn, một nơi cách Cam Ranh 10 cây số về hướng bắc. Bộ tư lệnh sư đoàn 23 BB có trách nhiệm tái trang bị các đơn vị ở đó (thành phần còn lại của sư đoàn 22 BB đã được di tản về Vũng Tàu).
Địa Phương Quân-Nghiã Quân từ các tỉnh Ban Mê Thuột, Kontum, Pleiku tập họp ở trung tâm huấn luyện Lam Sơn để được bổ sung vào đơn vị thiếu quân.
Biệt Động Quân và Pháo Binh tụ về trung tâm huấn luyện của họ tại trung tâm huấn luyện Dục Mỹ, cách Nha Trang 35 cây số.
Các đơn vị Thiết Kỵ, Thiết Vận Xa tập họp ở Long Thành, Biên Hòa.
Chương trình tái bổ sung /trang bị bao gồm huấn luyện, cấp số, vũ khí và tâm lý chiến. Chương trình tái huấn luyện /trang bị lấy tiểu đoàn làm chuẩn cho các đơn vị bộ binh và BĐQ; pháo binh ở cấp pháo đội (bốn đại bác cho một pháo đội), và thiết kỵ ở cấp đại đội.
Chương trình tái trang bị được thực hiện tốt đẹp như ý: sư đoàn 23 BB hoàn tất được một trung đoàn; hai tiểu đoàn BĐQ sắp hoàn tất phục hồi các đại đội; hai pháo đội pháo binh được huấn luyện xong và chờ nhận súng. Tiến trình đang xảy ra thì phòng tuyến của lữ đoàn Nhảy Dù ở Khánh Dương bị thất thủ sau ba ngày chiến đấu đẫm máu. Địch tràn về miền duyên hải, và các đơn vị đang được tái trang bị /bổ sung một lần nữa phải di chuyển về hướng nam.
Tất cả quân cụ vũ khí dành cho kế hoạch tái bổ sung /trang bị mất khi di tản lần thứ nhì. Đây là tất cả quân cụ, vũ khí BTTM và Tổng Cục Tiếp Vận có thể thu thập được từ Bộ Tư Lệnh Tiếp Vận Vùng 1, 2, và 4. Số quân cụ vũ khí mất, có thể dùng để trang bị cho hai trung đoàn bộ binh; một tiểu đoàn pháo binh 105 ly; một tiểu đoàn 155 ly; và một đại đội xe tăng M-48.
Các đơn vị di tản về từ Vùng I, khi đến Vùng III, được bổ sung và tái trang bị như sau:
Tái trang bị /bổ sung cấp tiểu đoàn, liên đoàn và lữ đoàn cho lực lượng bộ binh, BĐQ và TQLC; Pháo đội hay tiểu đoàn (12 khẩu pháo) cho các đơn vị pháo binh; và cấp đại đội cho đơn vị thiết kỵ.
Các đơn vị TQLC, sư đoàn 2 BB, và Liên Đoàn 81 Biệt Kích Nhảy Dù được ưu tiên trong vấn đề tái bổ sung và trang bị các đơn vị này không bị thiệt hại nhiều khi tập họp lại ở Vũng Tàu. Ưu tiên kế đến là sư đoàn 22 BB.
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, đang đóng tạm tại BTTM, có nhiệm vụ tái trang bị và bổ sung các đơn vị cơ hữu, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân Vùng I.
Các đơn vị này được tập họp ở trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp, và sẽ được bổ sung vào hai sư đoàn 2 và 3 BB. Sư đoàn 1 BB đã bị giải thể.
Tương tự, quân nhân di tản từ vùng II được tập họp ở sư đoàn 22 BB chờ bổ sung vào các đơn vị cần quân.
Bộ Tư Lệnh quân đoàn II bị giải thể. Tất cả nhân viên thuộc về bộ tư lệnh được xung vào các đơn vị đang tái lập.
Biệt Động Quân và Bộ Tư Lệnh Pháo Binh có nhiệm vụ tập họp các đơn vị của họ tại căn cứ Long Bình.
Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp tập họp các đơn vị của họ ở trường Thiết Giáp Long Thành.
Tổng Cục Quân Huấn có nhiệm vụ tập họp tất cả các khoá sinh, cán bộ các trung tâm huấn luyện Vùng I và II, đưa tất cả về các trường quân sự còn đang hoạt động ở Vùng III. Tại Vùng III, chương trình thụ huấn vẫn được tiếp tục. Cấp hạ sĩ quan tiếp tục thụ huấn tại trung tâm huấn luyện Quang Trung. Sinh viên trường Võ Bị Quốc Gia Đa Lạt được đưa về trường Sĩ Quan Bộ Binh Long Thành. Sinh viên sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị và Tâm Lý Chiến về trung tâm huấn luyện Tâm Lý Chiến ở Saigon.
Chương trình tái trang bị được thực hiện tại các địa điểm sau: Sư đoàn TQLC bổ sung lại tại hậu cứ của tiểu đoàn 4 TQLC tại Vũng Tàu; Sư đoàn 2 BB tại Bình Tuy; BĐQ gia nhập vào các hậu cứ của liên đoàn ở Long Bình; sư đoàn 22 BB tại trung tâm huấn luyện Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn ở Vũng Tàu. Pháo binh ở hậu cứ Long Bình; và Thiết Giáp thì tại trường Thiết Giáp Long Thành.
Mỗi trung đoàn hay lữ đoàn có thời gian tối đa là 15 ngày để tái trang bị /bổ sung. Đơn vị và bộ tư lệnh có trách nhiệm thu hồi vũ khí, quân cụ từ các đơn vị di tản. Lệnh trưng dụng tối đa vũ khí, quân cụ, còn xử dụng được, được ban hành. Vũ khí hư được gởi về Liên Đoàn 332 Tiếp Liệu thuộc Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận Vùng III ở Long Bình. Vũ khí, quân cụ cần thiết sẽ được Nha Quân Cụ phát ra khi có lời yêu cầu. Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận Vùng III đồng thời có trách nhiệm thu hồi vũ khí quân cụ từ các quân nhân ở các trại tị nạn vùng III; Bộ Tư Lệnh Hải Quân có trách nhiệm tương tự tại các trại tị nạn ở Phú Quốc.
Các đơn vị tiếp liệu, sửa chữa nhẹ, trung tâm tân trang được lệnh gia tăng khả năng hoạt động 24-trên-24. Thu hồi tối đa các bộ phận thay thế. Năm mươi phần trăm các dụng cụ, vũ khí từ các trường, trung tâm huấn luyện ở Vùng III và VI được đưa về Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận Vùng III để phân phối ra các đơn vị. Quân cụ, quân nhu đang tồn kho được chuyển về Long Bình. Giống như trường hợp khẩn cấp của năm Mậu Thân và năm 1972, tất cả quân viện cập bến từ Hoa Kỳ được phân phối ngay lập tức.
Chương trình tái bổ sung/trang bị được thành quả khả quan. Sư đoàn 2 BB, được bổ sung lại hai trung đoàn, một tiểu đoàn pháo binh 105 ly, một pháo đội 155 ly, và một đại đội thiết kỵ M-113. Các lực lượng này được đưa lên mặt trận Phan Rang vào ngày 14 tháng 4. Một lữ đoàn TQLC, bổ sung lại và tăng viện thêm một tiểu đoàn pháo binh với 12 đại bác, nhận nhiệm vụ phòng thủ ở mặt trận Long Thành, Vùng III vào ngày 10 tháng 4. Một lữ đoàn TQLC khác cũng đang được tái bổ sung, huấn luyện và chuẩn bị ra trận. Một liên đoàn BĐQ, với một chi đội 4 khẩu đại bác, được tái trang bị và gởi về Định Tường Long An, tăng viện cho Vùng IV. Một liên đoàn thứ hai cũng sắp thành hình. Sư đoàn 22 BB, trang bị lại, có 2 trung đoàn bộ binh, hai tiểu đoàn pháo binh, với 12 đại bác 105 ly cho mỗi tiểu đoàn, và hai đại đội thiết kỵ M-113. Lực lượng này trấn giữ tuyến Long An như một lực lượng trừ bị của Vùng III vào cuối tháng 4. Một tiểu đoàn bộ binh thuộc sư đoàn 3 BB đang thụ huấn tại trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp, sắp sửa được trang bị để hoạt động lại.
Dù đã trưng dụng hết quân liệu trừ bị, quân viện vừa nhận được, 50% quân cụ, vũ khí, lấy từ các trung tâm huấn luyện, cộng thêm các vũ khí được sửa chữa tối đa, các đơn vị được tái trang bị vẫn thiếu nhiều dụng cụ, vũ khí cần thiết:
1. Chỉ có được 50% súng phóng lựu M-27, đạn súng cối 60 và 81 ly.
2. Mỗi súng cá nhân M-16 chỉ có 3 băng đạn (thay vì 6).
3. Máy truyền tin cá nhân chỉ có được 50%: mỗi đại đội trang bị một máy truyền tin AN/PRC-25 hoặc là AN/PRC-10.
4. Thiết giáp M-113 thiếu hệ thống truyền tin và thép chắn bảo vệ xạ thủ đại liên trên xe.
5. Chỉ còn 10% xe vận tải cần thiết.
6. Chỉ còn 10% nón sắt và hộp cứu thương cá nhân cho các đơn vị.
Thêm vào những thiếu thốn nói trên, một số đơn vị đã được huấn luyện bổ sung xong, nhưng chưa hoạt động được vì thiếu vũ khí, quân cụ: Một đại đội thiết kỵ M-113; hai đại đội thiết kỵ M-48; hai tiểu đoàn pháo binh 105 ly; một tiểu đoàn pháo binh 155 ly; một liên đoàn BĐQ; và một trung đoàn bộ binh.(3)
Thả Bom ở Độ Cao
Trong những tháng cuối của cuộc chiến, BTTM xử dụng phi cơ vận tải C-130A vào các cuộc dội bom chiến thuật để thay vào hỏa lực của các chiến đấu, oanh tạc cơ không hoạt động hữu hiệu được vì hỏa lực phòng không của địch. C-130 có thể chứa được 8 kiện hàng, mỗi kiện hàng chứa bốn thùng dầu phế thải. C-130 được hướng dẫn đến mục tiêu bằng máy truyền tin và thả những thùng dầu phế thải này từ cao độ 15 đến 20 ngàn bộ (5 đến 7 cây số). Chu vi sát hại của những thùng dầu này có đường kính 150 đến 450 mét.
C-130 cũng có thể chở 32 trái bom loại 250-500 cân, hay 21 bom 750 cân, trên tám kiện hàng. Bom cũng thả từ cao độ 15-20 ngàn bộ. Binh sĩ ở mặt trận rất phấn khởi khi chứng kiến những cuộc dội bom đó. Họ gọi đó là "mini-B-52," hay "B-52 Việt Nam." Sau phi vụ đầu tiên thả xuống chiến khu C ở Tây Ninh, dân quân tưởng đó là B-52; lời đồn không quân Hoa Kỳ trở lại Việt Nam loan truyền ra nhanh chóng.
Gần những ngày tàn của cuộc chiến, cộng sản tụ quân, và thiết lập các căn cứ hậu cần ngụy trang rất sơ xài, dễ quan sát từ trên không. Đây là những mục tiêu tốt cho vũ khí chiến lược, có sức tàn phá mạnh. Cuối tháng 2, 1975, qua những lần viếng thăm Saigon của thứ trưởng quốc phòng Eric von Marbod và đại tướng Weyand, BTTM xin Hoa Kỳ cung cấp cho Việt Nam những loại bom chiến lược không quân có thể xử dụng được. Loại bom Hoa Kỳ cung cấp cho Việt Nam là bom có phiến danh "Daisy Cutter," nặng 15 ngàn cân. Không quân Hoa Kỳ dùng bom này để phá rừng, làm bãi đáp trực thăng trong cuộc chiến. Hoa Kỳ hứa gởi cho 27 quả bom và chuyên viên huấn luyện xử dụng bom trong vòng một tuần. Giữa tháng 4, ba trái được chở đến, và gần cuối tháng 4, thêm ba trái nữa. Một chuyên viên Hoa Kỳ đi theo để hướng dẫn không quân Việt Nam gắn ngòi nổ và cách vận chuyển bom trên phi cơ. Nhưng người phi công Hoa Kỳ có trách nhiệm lái máy bay thả bom thì không đến. Trong tình trạng khẩn trương của chiến trường và sự nguy hiểm khi phải chứa loại bom này ở phi trường Tân Sơn Nhất hay Long Bình, BTTM và bộ tư lệnh Không Quân quyết định tuyển chọn một phi công kinh nghiệm cho nhiệm vụ thả bom. Chiếc C-130 và quả bom "Daisy Cutter" cất cánh vào lúc nửa đêm nhưng sau 20 phút lại hạ cánh. Các sĩ quan không quân hữu trách và BTTM vô cùng lo sợ cho tai nạn xảy ra khi phi cơ hạ cánh với quả bom còn trên phi cơ. Tuy nhiên phi cơ quay về vì một lý do kỹ thuật nhỏ. Phi cơ cất cánh lại sau ba mươi phút.
Vào một giờ sáng phi cơ thả trái "Daisy Cutter" đầu tiên cách Xuân Lộc sáu cây số về hướng tây bắc. Thành phố Xuân Lộc bị rúng động như gặp động đất; tất cả đèn điện bị tắt, và truyền tin của địch ngưng hoạt động, bộ chỉ huy sư đoàn 341 CSBV bị tiêu hủy. Tinh thần binh sĩ VNCH phấn khởi. Tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh sư đoàn 18 BB ở mặt trận Xuân Lộc hỏi, "BTTM còn nhiều loại bom đó không"" Tin đồn loan truyền nhanh ngoài quần chúng là chúng ta đang được trang bị bom nguyên tử. Cộng Sản Bắc Việt lên tiếng nguyền rủa VNCH và Hoa Kỳ đã xử dụng vũ khí tàn phá chiến lược.
Dùng bom phá rừng "Daisy Cutter" đánh vào các điểm tập trung quân của địch có kết quả rất tốt: tinh thần chiến đấu của quân ta phấn khởi. Nhưng vì thiếu nhiên liệu, ít bom, và khó khăn về bảo trì, sửa chữa, nên không quân chỉ bay được từ hai cho đến bốn phi vụ C-130 mỗi ngày.
Trong cuộc tổng tấn công của cộng sản năm 1972, chúng ta cũng bị thiệt hại nặng, nhất là ở Vùng I. Nhưng lúc đó BTTM có thời gian và phương tiện để bổ xung và củng cố lại tất cả các đơn vị bị thiệt hại. Và chỉ sau một tháng quân đội chúng ta sẵn sàng chiếm lại các phần đất mất vào tay địch. Chúng ta có được thời gian ở chiến trường vì có được trợ giúp không lực chiến thuật của Hoa Kỳ, nhất là pháo đài bay B-52. Không nhờ các cuộc oanh tạc không ngừng của pháo đài bay yểm trợ quân ta, chúng ta chắc không giữ nổi KonTum hay An Lộc. Trong thời gian đó, B-52 được xử dụng đều đặn gần như phi cơ chiến thuật yểm trợ tiếp cận.
Trong khi ngoài chiến trường pháo đài bay B-52 cung cấp hỏa lực khủng khiếp, ở hậu phương vận tải cơ C-130, C-5, C141, hay C-130 chuyên chở vũ khí và quân cụ tiếp viện cho quân ta ngày đêm liên tục. Vào năm 1972 chúng ta không thiếu bất cứ gì từ tiền cho đến vũ khí. Quân đội chúng ta lúc đó không lo về thiếu thốn; họ chỉ lo làm sao nhận và chuyển đồ ra mặt trận đúng theo lịch trình tiếp tế mà thôi.
Nhưng năm 1972 là một tương phản thật xa so với năm 1975: thay vào chỗ của pháo đài bay B-52, chúng ta chỉ còn được một trái bom 15 ngàn cân; vũ khí và quân cụ phải biến chế để xử dụng. Đến giữa tháng 4, 1975, chúng ta đã xài hết quân dụng, vũ khí tồn kho, vào việc tái trang bị các đơn vị di tản từ hai Vùng I và II. Đến giờ phút muộn màng đó, dù chúng ta có nhận được 300 triệu mỹ kim viện trợ đi nữa, tình hình đã quá trễ.
Tình Hình ở Vùng III Sau những chiến thắng ở Vùng I và II, cộng quân tập trung quân tại Vùng III với ý định đánh thẳng vào Biên Hòa và Saigon thủ phủ của miền Nam. Các sư đoàn cơ hữu của Vùng I (như sư đoàn 324B, 325) và Vùng II (như 968, sư đoàn 3, và F-10) tiến về miền nam. Thêm vào các đơn vị đó là các sư đoàn trừ bị và sư đoàn đang hoạt động tại mặt trận điạ phương (như các sư đoàn 5, 7, 9 và sư đoàn 3 CSBV). Tóm tắt, lực lượng của địch chung quanh Saigon Biên Hoà vào những ngày cuối: Cộng sản có 15 sư đoàn bộ binh, yểm trợ bởi sư đoàn đặc công, sư đoàn pháo binh, vài lữ đoàn xe tăng, và cao xạ, hỏa tiễn phòng không.
Địch tấn công bốn hướng; mỗi hướng có một lực lượng tương đương cấp quân đoàn.(4) Đối diện với lực lượng hùng hậu này, quân đoàn III chỉ có sư đoàn 5, 25, 18, lữ đoàn 3 thiết kỵ, ba liên đoàn BĐQ và một lữ đoàn Nhảy Dù. Mặt dù các đơn vị di tản từ hai vùng I và II được tái trangbị /bổ sung, khả năng tác chiến của các đơn vị này vẫn chưa đúng tiêu chuẩn. Phải cần thời gian và vũ khí nhiều hơn để hồi phục lại khả năng chiến đấu của các đơn vị vừa được bổ sung, trang bị lại. Sư đoàn 2 BB, bị tổn thất nhẹ, được trang bị lại, gởi ra mặt trận Phan Rang, nhưng Phan Rang đã thất thủ. Sư đoàn 3 và 23 thì coi như tan hàng, không còn hữu hiệu như một đơn vị. Sư đoàn 22 BB, tổn thất khoảng 40 phần trăm, được trang bị lại trong vòng một tuần, và 2 trung đoàn của sư đoàn được đưa về giữ mặt nam của quân đoàn III tại Long An. Khoảng 2000 BĐQ về từ vùng I và II, được tổ chức lại thành một liên đoàn và đưa về phụ trách Mỹ Tho ở Vùng IV. Sư đoàn Nhảy Dù, bị tổn thất 50 phần trăm ở Khánh Dương và Phan Rang, còn được hai lữ đoàn. TQLC còn khảng 6000 quân sau khi di tản. Hai lữ đoàn được trang bị lại rồi sát nhập vào quân đoàn III như một lực lượng ứng trợ. Tóm lại, sau khi mất vùng I và II, quân đội VNCH chỉ còn 50 phần trăm lực lượng tổng quát.
Sư đoàn 18 BB chịu trách nhiệm mặt trận Long Khánh (Xuân Lộc). Sư đoàn có nhiệm vụ chiếm lại quân lỵ Định Quán trên quốc lộ 20, giải tỏa lưu thông trên quốc lộ 1, và bảo vệ an ninh vòng đai phía bắc quốc lộ 15, căn cứ tiếp vận Long Bình, và phi trường Biên Hòa. Khi địch tấn công Xuân Lộc, nằm dưới quyền xử dụng của sư đoàn 18 là các đơn vị: ba trung đoàn cơ hữu 43, 48, 52, và thêm trung đoàn 8 của sư đoàn 5 BB; Lữ đoàn 3 thiết kỵ (hai tiểu đoàn xe tăng M-113 và M-41); hai tiểu đoàn BĐQ và hai tiểu đoàn pháo binh (105 và 155 ly). Các đơn vị này được tổ chức thành 3 lực lượng đặc nhiệm 316, 318, và 322; một lữ đoàn Dù (ba tiểu đoàn tác chiến và một tiểu đoàn pháo 105 ly); Liên đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù; khoảng 4 tiểu đoàn Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của tỉnh. Sư đoàn 4 Không Quân phụ trách không vận và không yểm.
Mặt trận Long Khánh sôi động hơn mặt trận Tây Ninh và Bình Dương nhiều. Ngày 9 tháng 4, 1975, sư đoàn 431 và sư đoàn 3 chiếm ngả ba Dầu Giây nơi quốc lộ 20 chạy nối quốc lộ 1 dẫn về Xuân Lộc. Địch làm tuyến án ngữ ở đây, rồi pháo kích vào Xuân Lộc, căn cứ Không Quân Biên Hòa, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, và trung tâm tiếp liệu Long Bình. Vài ngày sau, địch tăng cường thêm sư đoàn 7, nâng lực lượng có mặt lên thành một quân đoàn cho mặt trận Xuân Lộc.(5) Sau khi cản đường tại ngả ba Dầu Giây, địch đánh vào phòng tuyến của trung đoàn 52 ở tây bắc Xuân Lộc. Trung đoàn 52 bị thiệt hại nặng. Địch cũng đồng thời chận đánh một lực lượng thiết kỵ trên đường tiếp ứng Xuân Lộc.
Sau một tuần cầm cự, khi quốc lộ 20 bị phong tỏa, quân đoàn III trực thăng vận lữ đoàn 1 Nhảy Dù vào Xuân Lộc. Không yểm cho xuân Lộc được gia tăng, và sư đoàn 18 dần dần nới rộng vòng đai phòng thủ ra ngoài. Với quân tăng viện, địch tấn công vào phòng tuyến của Nhảy Dù ở mặt nam thành phố, nhưng bị quân Dù đánh bại. Quân Nhảy Dù đuổi theo đơn vị của cộng sản cho đến khi họ rút xa về hướng đông. Không quân VNCH cũng gia tăng nhiều phi vụ, dội Mặt Trận Xuân Lộc. Trận Xuân Lộc là trận đánh thất bại lớn nhất và duy nhất của cộng sản trong chiến dịch cuối cùng cưỡng chiếm miền Nam. Quân đoàn 4 của Hoàng Cầm, với các sư đoàn 7, 341, 6 (thiếu) và trung đoàn 95B, bị khựng lại với sự chống trả mãnh liệt của sư đoàn 18 BB. Quân đoàn 4 CSBV bị thiệt hại nặng đến mức Văn Tiến Dũng và Lê Đức Thọ yêu cầu tư lệnh B-2 Trần Văn Trà đến tận nơi để giải quyết chiến trường. Bị dội bom dữ dội, các sở chỉ huy tiền phương của địch bị thiệt hại nặng, cánh quân của địch ở hướng đông nam án binh bất động vài ngày liền.
Ở hướng tây bắc thành phố, sau khi án binh để củng cố lực lượng hai ngày, địch mở lại cuộc tấn công và dù bị thiệt hại nặng, lần này một vài toán quân xâm nhập được vào thành phố và cố thủ ở một chủng viện. Sư đoàn 18 lập tức phản công, và bắt được hơn 20 tù binh đang trốn tại đó. Phần lớn các tù binh bị bắt ở trong lứa tuổi 17. Đây là các tân binh mới bị đưa vào nam. Họ thú nhận họ chưa rành địa hình của mặt trận, sợ chiến trường và sợ pháo binh. Từ lúc xâm nhập vào thành phố, họ trốn dưới các ống cống, và chưa hề bắn một viên đạn nào của 70 viên đạn được cấp phát.
Sau nhiều cuộc tấn công không thành ở hai hướng bắc và nam vào thành phố, địch quyết định tấn công mạnh vào tuyến phòng thủ của trung đoàn 48 phía tây Xuân Lộc, hướng Dầu Giây. Dưới sự yểm trợ của chiến xa, địch chọc thủng phòng tuyến của trung đoàn. Mặt dù hai tiểu đoàn của trung đoàn 48 vẫn còn liên lạc được với sư đoàn 18, bộ chỉ huy chính của trung đoàn mất liên lạc. Với đưòng bộ tiếp viện từ Biên Hòa lên bị phong tỏa, và không vận tiếp tế, tải thương, bị giới hạn, quân đoàn III quyết định di tản sư đoàn 18 khỏi Xuân Lộc vì sợ sư đoàn bị cô lập sau khi Dầu Giây mất.(6)
Ngày 23 tháng 4, sư đoàn 18, lữ đoàn 1 Dù, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân tỉnh, di tản khỏi Xuân Lộc theo liên tỉnh lộ 2. Cuộc rút quân diễn ra tốt đẹp nhờ vào kế hoạch nghi binh và yếu tố bất ngờ của chuẩn tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh mặt trận Xuân Lộc. Quân di tản bảo toàn được lực lượng và tất cả vũ khí nặng của đơn vị. Sư đoàn 18 về đến căn cứ Long Bình vào chiều cùng ngày. Tại đây sư đoàn được nghỉ dưỡng quân ba ngày, sau đó được trang bị và bổ sung, nhận nhiệm vụ phòng thủ mặt đông nam Biên Hòa. Sư đoàn Nhảy Dù vẫn ở lại Phước Tuy để bảo vệ hành lang lưu thông Saigon Vũng Tàu.
Sau hai tuần chiến đấu mãnh liệt, sư đoàn 18 bị thiệt hại 30% quân số. Trung đoàn 52 hoàn toàn tan rã, phải được tái trang bị và bổ sung lại từ đầu. Mất trung đoàn 52 là một tổn thất lớn lao vì trung đoàn có nhiều sĩ quan kinh nghiệm, tác chiến giỏi. Lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân bị thiệt hại nặng, không còn khả năng tác chiến. Lữ đoàn 1 Nhảy Dù bị thiệt hại tương đối nhẹ ở mặt trận Xuân Lộc.
Trong trận Xuân Lộc, yểm trợ của không quân rất hữu hiệu. Các cuộc dội bom chiến thuật và bom CBU đánh tan nhiều cuộc tập trung quân chuẩn bị tấn công của địch. Ít nhất nguyên một trung đoàn của địch bị thương vong vì bom CBU-55 và các loại bom chiến lược khác. Dân tị nạn đi ngang qua Xuân Lộc sau này, cho biết họ thấy hàng trăm xác địch nằm rải rác ở chiến trường, trên người vẫn còn mang vũ khí, ba lô. Nhiều xác chết không có vết thương trên người.
Sau cuộc rút quân tốt đẹp từ Xuân Lộc, Quân Đoàn III gom lực lượng lại, chuẩn bị kế hoạch phòng thủ các phần còn lại của Vùng III và Biệt Khu Thủ Đô (Saigon). Theo kế hoạch do trung tướng tư lệnh quân đoàn Nguyễn Văn Toàn trình lên BTTM, quân đoàn lập ra 5 tuyến phòng thủ. Các tuyến phòng thủ được thiết lập xa ngoài tầm tác xạ đại pháo 130 ly của CSBV. Năm phòng tuyến nối thành một vòng cung án ngữ các hướng tây, bắc, và đông Saigon. Củ Chi ở hướng tây bắc do sư đoàn 25 BB giữ; Bình Dương ở hướng trực bắc do sư đoàn 5 BB bảo vệ; sư đoàn 18 trấn thủ mặt Biên Hòa và hướng đông bắc; Lữ đoàn 1 Dù, một tiểu đoàn của sư đoàn 3 BB, thiết kỵ, và Địa Phương Quân, Nghĩa Quân của chi khu Phước Tuy bảo vệ đường giao thông Saigon Vũng Tàu.
Đây là con đường huyết mạnh cần phải bảo vệ trong trường hợp ta phải rút về miền biển; Long An ở phía tây nam nằm trong vùng trách nhiệm của Biệt Khu Thủ Đô (do sư đoàn 22 thiếu, sau khi được tái trang bị/bổ sung, bảo vệ).
Với tư cách tư lệnh chiến trường, trung tướng Toàn được ủy quyền hoàn toàn quyết định với sự ủng hộ của BTTM. Ngày 22 tháng 4, tướng Toàn rút sư đoàn 25 BB ở Tây Ninh về, giao mặt trận đó cho các lực lượng địa phương và liên đoàn BĐQ. Sư đoàn 25 BB lập phòng tuyến mới ở Củ Chi, bảo vệ hướng tây của Biệt Khu Thủ Đô về tận Saigon. Với sư đoàn 18 canh giữ Biên Hòa và hướng đông, quân đoàn III đưa lữ đoàn 3 thiết kỵ và lữ đoàn 468 TQLC về hướng nam của căn cứ tiếp liệu Long Bình. Lữ đoàn 1 Nhảy Dù, như đã nói, lo Phước Tuy và quốc lộ 15 Saigon Vũng Tàu.
Sau khi An Lộc, Chơn Thành và Xuân Lộc bị bỏ ngỏ, áp lực địch càng lúc càng gia tăng về hướng Saigon. Các đoàn quân xa tiếp tế chạy trên quốc lộ 22, Saigon Tây Ninh bị phục kích thường xuyên. Địch gia tăng pháo kích vào phi trường Biên Hòa bằng hỏa tiễn và pháo 130 ly. Quân địch từ các mật khu, căn cứ, ở hướng bắc và tây bắc như Hố Bò, Bời Lời, Chiến Khu D, Bình Dương, bắt đầu tiến về Saigon không cần ngụy trang. Mỗi cánh quân gồm hai, ba sư đoàn chủ lực có pháo binh và thiết giáp yểm trợ. Trong khi đó tinh thần chiến đấu của quân lực VNCH bị xao động mạnh hơn khi tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào ngày 21 tháng 4. Lợi dụng tình cảnh hỗn loạn chính trị và tinh thần hoang mang của quân dân miền Nam, ngày 26 tháng 4, cộng quân dốc toàn lực tấn công vào Biên Hòa từ hướng nam và đông nam. Địch tấn công vào trường Thiết Giáp và quận lỵ Long Thành; phong tỏa quốc lộ 15 Saigon Vũng Tàu. Ở phía tây nam Biên Hòa, địch chiếm cầu và đường xe lửa. Ở hướng đông nam, địch vây kho đạn Thành Tuy Hạ, cố gắng phá hủy mục tiêu này để gây thêm áp lực cho quân trú phòng vòng đai tây nam Saigon.
Sau khi Bình Tuy và Xuân Lộc di tản, bộ binh, xe tăng địch tiến về Đất Đỏ, đánh chiếm trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp, nơi một trung đoàn bộ binh và vài đơn vị Nghĩa Quân, Địa Phương Quân đang tái huấn luyện. Các đơn vị VNCH rút về Vũng Tàu, sau khi phá cầu Rạch Hào để ngăn không cho cộng quân tiến về Vũng Tàu bằng đường 15. Địch pháo kích Vũng Tàu hai ngày 28 và 29 tháng 4. Phi trường và Trường Truyền Tin là hai mục tiêu bị pháo mạnh nhất.
Đầu tháng 3, 1975, địch đã có ý chiếm núi Bà Đen, và làng xã chung quanh khu vực Hố Bò, Khiêm Hạnh, Hiếu Thiện ở Tây Ninh, để nới rộng điạ bàn hoạt động, xâm nhập của địch. Ở mặt trận Khiêm Hạnh-Hiếu Thiện, địch quân gặp sự kháng cự mãnh liệt của sư đoàn 25 BB và lữ đoàn 3 Thiết Kỵ. Địch để lại hàng trăm xác trong các cuộc đụng độ với hai đơn vị này. Tuy nhiên, với lợi thế và được lệnh phải thanh toán mục tiêu, địch chiếm được quận lỵ Dầu Tiếng ở Bình Dương và tràn qua sông, đem xe tăng, pháo binh vào Hố Bò, Bời Lời, gây áp lực trầm trọng cho Biệt Khu Thủ Đô.
Sau khi rút khỏi Tây Ninh và lập phòng tuyến mới ở Củ Chi, Sư đoàn 25 BB đụng trận liên tục với địch ở Đức Hòa, Đức Huệ và Hiếu Thiện. Đường giao thông giữa Hậu Nghĩa và Đức Huệ, Hiếu Thiện và Củ Chi bị chận nhiều đoạn. Sư đoàn 25 BB vừa cố gắng giải tỏa, vừa cố thủ phòng tuyến không cho địch tiến về Saigon. Nhưng cộng quân dần dần đánh sâu vào và làm chủ phòng tuyến Bà Điểm, Hóc Môn, cắt đứt đường rút lui của sư đoàn, rồi chuẩn bị đánh thẳng vào Saigon. Hai đêm 27 và 28 tháng 4, Củ Chi bị pháo mãnh liệt; phía ta thiệt hại nặng: đoàn xe tiếp tế từ Củ Chi lên Hiếu Thiện bị phục kích, 45 xe bị thiêu hủy.
Nhưng mặt trận do sư đoàn 25 BB phụ tránh không mãnh liệt bằng mặt trận ở phòng tuyến Biên Hòa.
Ở Biên Hòa, để sửa soạn cho cuộc tấn công cuối cùng vào Saigon, địch đánh chiếm các cứ điểm do Nghĩa Quân và Địa Phương Quân đóng trên đường tấn công của họ. Ở hướng bắc và đông bắc Bến Sắn, sư đoàn 7 CSBV gặp sức kháng cự mạnh của sư đoàn 5 BB khi họ tiến về hai hướng đông và tây bắc tỉnh Bình Dương. Sư đoàn CSBV 7 bị thiệt hại nặng và khựng lại tại chổ.
Vừa đẩy lui sư đoàn 7 CSBV ở mặt Bình Dương, sư đoàn 5 BB lại phải đối diện với các cuộc tấn công khác của địch từ hướng Chơn Thành, An Lộc. Sau khi di tản khỏi An Lộc, bốn Liên đoàn BĐQ và các đơn vị địa phương tỉnh chống trả mãnh liệt với các đơn vị cộng sản ở phía nam Chơn Thành. Cùng lúc, địch dùng pháo binh và hỗn hợp bộ binh thiết giáp chận đánh các đơn vị của sư đoàn 5 BB khi họ tiến theo quốc lộ 13 từ Bầu Bàng lên Chơn Thành để tiếp ứng đơn vị bạn. Dưới sự yểm trợ của không quân và pháo binh, BĐQ ở Chơn Thành đánh bật cuộc tấn công của địch, bắn cháy 14 xe tăng và giết hơn 300 địch quân trong hai ngày chiến đấu. Nhưng địch vẫn hy sinh quân, bám sát vào phòng tuyến của chúng ta. Ý định của địch là cố gắng cắt đứt đường rút quân của BĐQ về Lai Khê. Nhưng sáu tiểu đoàn BĐQ và hai tiểu đoàn của địa phương chi khu, dưới quyền chỉ huy của đại tá Nguyễn Thành Chuẩn, rút về được Lai Khê cùng với vũ khí nặng. Nhưng họ phải phải phá hủy 10 ngàn đạn và 4 khẩu đại bác 155 ly vì không vận chuyển được lúc rút quân đi.
Tình Hình Vùng 4
Khác với tình hình ở ba Vùng Chiến Thuật, tình hình ở Vùng 4 tương đối yên tỉnh trừ những cuộc đụng độ qua lại giữa sư đoàn 9 VNCH và sư đoàn 5 CSBV ở vùng Định Tường, Svay Rieng, bên kia biên giới Cam Bốt. Trước tháng 3, phần lớn hoạt động của địch nhắm vào các đơn vị Nghĩa Quân, Địa Phương Quân đóng ở những tiền đồn chung quanh Chương Thiện, Kiên Giang. Nhưng từ giữa tháng 3-1975, địch gia tăng hoạt động đánh vào các cơ sở tiếp liệu, đồn bót đóng bảo vệ quốc lộ 4 huyết mạch, nối liền Saigon và đồng bằng sông Cửu Long.
Sư đoàn 5 CSBV, sau một thời gian dài dưỡng quân, trang bị và tái bổ sung, lực lượng này xâm nhập qua biên giới, tiến về phiá tây nam Tân An, tấn công vào các đơn vị địa phương ở quận lỵ Thủ Thừa. Ý định của cộng quân là sau khi chiếm được Thủ Thừa, địch sẽ lợi dụng địa thế đó cắt đứt đường giao thông giữa Phú Lâm và Tân An trên quốc lộ 4 không cho sư đoàn 7 BB tiếp cứu Saigon. Nhưng cuộc tấn công vào Thủ Thừa của cộng sản bị thất bại: quân phòng thủ đánh tan ngay cuộc tấn công và gây nhiều thương vong cho địch. Song song với cuộc tấn công vào Thủ Thừa, địch đánh vào quận lỵ Bến Tranh. Nhưng quân hỗn hợp của sư đoàn 7 và 9 BB đánh bại cuộc tấn công; địch bỏ lại vài ba trăm xác, hai mươi tù binh và cả trăm vũ khí trong đó có súng phòng không và trọng pháo. Ở đoạn đường từ phía nam Tân An đến chung quanh Bến Tranh, quân ta giải tỏa các chốt đóng cản đường lưu thông của địch trên quốc lộ 4 và lưu thông từ Saigon về Mỹ Tho hay xa hơn về Vùng 4 được trở lại bình thường.
Từ lâu cộng sản có căn cứ ở vùng U Minh Thượng và U Minh Hạ, nằm trong địa phận của hai tỉnh Chương Thiện và Kiên Giang. Hành lang tiếp tế cho các mật khu này bắt nguồn từ biên giới qua ngả Hà Tiên. Sau khi dự trử và bổ sung quân đầy đủ, địch lập ra sư đoàn 8 BB. Quân của sư đoàn đến từ những đơn vị cơ hữu của địa phương và một số đơn vị đến từ quân khu 3 CSBV. Sư đoàn 8 bắt đầu tấn công quấy rối các tiền đồn của tỉnh Cần Thơ vào cuối tháng 3-75. Địch mở hai hướng tấn công: một hướng đánh vào bộ tư lệnh Quân Đoàn IV ở Cần Thơ; hướng kia đánh vào trung tâm Huấn Luyện Cái Vồn và quận lỵ Bình Minh ở Vĩnh Long. Để ngăn cản không cho quân ta tiếp viện qua lại giữa Vĩnh Long và Cần Thơ, địch đóng nhiều chốt kháng cự ở Ba Càng. Sư đoàn 21 BB và lính Thiết Kỵ lập tức đánh tan cuộc tấn công vào Cần Thơ. CS bỏ lại hơn 300 xác và hàng trăm vũ khí. Cộng quân cũng thất bại trong hướng đánh vào quận lỵ Bình Minh; và chỉ trong vòng 48 tiếng đồng hồ, quân ta giải tỏa được tất cả các chốt của địch ở Ba Càng.(7)
Tóm lại, ý định của cộng quân là muốn cắt đứt giao thông trên quốc lộ 4, chặn đường tiếp viện Saigon Cần Thơ, bảo vệ hành lang xâm nhập từ vùng Mỏ Vẹt, Cam Bốt, vào căn cứ của họ ở vùng IV. Nhưng đó chỉ là những hoạt động nghi binh để hỗ trợ cho chiến lược lớn hơn là đánh vào quân đoàn III và Biệt Khu Thủ Đô. Vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, bộ chỉ huy CSBV ở miền Nam gom các trung đoàn biệt lập ở Vùng IV và lập ra vài sư đoàn mới. Tuy nhiên những sư đoàn mới này chỉ có danh trên giấy tờ chứ không phải là một lực lượng tác chiến có khả năng. Những sư đoàn mới này được tạo ra nhằm vào mục tuyên truyền, tâm lý nhiều hơn.
Khác với các cuộc hành quân quy ước lớn áp dụng ở ba quân khu kia, tại đồng bằng sông Cửu Long địch áp dụng chiến thuật du kích nhiều hơn để làm suy yếu hạ tầng cơ sở của ta hầu kiểm soát được tài nguyên phong phú ở đó.
Ngay vào thời gian mãnh liệt nhất của cuộc chiến xảy ra ở ba vùng chiến thuật vào tháng 3, 4-75, tình hình quân sự ở Vùng 4 tương đối yên tỉnh. Ngay cả lúc lệnh đầu hàng được ban hành từ Saigon, không một tỉnh hay quận nào của Vùng IV nằm dưới sự kiểm soát của cộng sản. (Còn tiếp...)


Chú thích Chương 8 (tiếp theo)
3. Sau này có nhiều sách, ý kiến, chỉ trích về cách tái huấn luyện, trang bị, tái thiết lập các đơn vị triệt thoái từ quân đoàn I và II. Tác giả đồng ý là một bài toán có nhiều phương cách giải để đi đến đáp số. Nhưng tác giả phải xác nhận các cơ quan Tổng Cục Tiếp Vận, Chiến Tranh Chính Trị, Quân Huấn và Phòng 3 của BTTM đã làm hết sức để chỉnh bị các đơn vị trên một cách mau chóng (chú thích của tác giả).
4. Trong Tổng Hành Dinh Trong Mùa Xuân Chiến Thắng (Chính Trị Quốc Gia, Hanoi: 2000) của Võ Nguyên Giáp, chiến dịch Hồ Chí Minh đánh vào thủ đô Saigon và vùng phụ cận dùng tương đương 5 quân đoàn: Quân đoàn 1 ở hướng trực bắc Saigon, đánh vào Lái Thiêu, Bến Cát; quân đoàn 2 ở hướng đông nam, đánh về hướng Long Thành, căn cứ Nước Trong, Thành Tuy Hạ; quân đoàn 3 ở hướng tây bắc, phụ trách cứ điểm Trảng Bàng, căn cứ Đồng Dù, Hóc Môn; quân đoàn 4, đánh hướng đông bắc về Xuân Lộc, Biên Hòa, Long Bình; quân đoàn 232 đánh lên Saigon từ hướng tây nam, qua Cần Duộc, Tân An, Bến Lức, Nhà Bè. Bộ Tư Lệnh, do Văn Tiến Dũng làm tư lệnh, Phạm Hùng làm chính ủy, đặt tại Căm Xe, trực bắc Saigon. Từ Điển Bách Khoa Quân Sự Việt Nam (Quân Đội Nhân Dân, Hanoi: 1996), liệt kê lực lượng của chiến dịch Hồ Chí Minh như sau: Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232, tổng cộng 17 sư đoàn bộ binh; 6 trung đoàn và 4 tiểu đoàn đặc công; 3 lữ đoàn /trung đoàn và 4 tiểu đoàn tăng thiết giáp; 22 lữ đoàn /trung đoàn và 8 tiểu đoàn pháo binh; cộng thêm các đơn vị binh chủng khác; lực lượng cộng sản địa phương gồm 2 trung đoàn bộ binh và 6 trung đoàn đặc công. Xem Võ Nguyên Giáp, trang 313; Từ Điển Quân Sự, trang 118-119 (chú thích của dịch giả).
5. Trong nguyên thủy, Quân Đoàn 4 do Hoàng Cầm làm tư lệnh, phụ trách mặt trận Xuân Lộc. Quân Khu 4 có hai sư đoàn cơ hữu là sư đoàn 7 và 9. Khi tấn công Xuân Lộc, sư đoàn 7 là sư đoàn duy nhất của quân đoàn 4. Hoàng Cầm đoàn được Bộ Tư Lệnh B2 tăng cường thêm sư đoàn 341, sư đoàn 6 thiếu (của quân khu 7), trung đoàn 95B (quân khu 5, gia nhập sau khi ba sư đoàn trên bị thiệt hại nặng) và các các lực lượng phụ trợ như phòng không, pháo binh, thiết giáp. Sư đoàn 3 thuộc về quân đoàn 2, đánh xuống hướng nam, về Vũng Tàu. Sư đoàn 9 được chuyển qua quân khu 8, nhập vào quân đoàn 232 (vừa mới thành lập khi CSBV đổi tên chiến dịch thành Chiến Dịch Hồ Chí Minh vào ngày 26 tháng 4). Xem, Thượng Tướng Hoàng Cầm, Chặn Đường Mười Nghìn Ngày (Quân Đội Nhân Dân, Hanoi: 2001), trang 403-420; Đảng Ủy, Ban Chỉ Huy Sư Đoàn Bộ Binh 9, Sư Đoàn 9 (Quân Đội Nhân Dân, Hanoi: 1990), trang 282-283 (chú thích của dịch giả).
6. Cuộc tấn công vào Xuân Lộc của Quân Đoàn 4 CSBV là một sự thất bại lớn nhất và duy nhất trong chiến dịch tấn công miền Nam vào những ngày cuối của cuộc chiến. Trong Chặn Đường Mười Nghìn Ngày, Hoàng Cầm thú nhận ba sư đoàn 7, 341, 6, bị tổn thất rất nặng; họ phải cầu viện thêm trung đoàn 95B từ quân khu 5 ngoài Trung vào tăng viện. Theo Hoàng Cầm, hai ngày đầu tiên, trận chiến xảy ra như ý họ muốn. Nhưng khi lực lượng ở Xuân Lộc chỉnh đốn lại tuyến phòng thủ thì cuộc tấn công của cộng sản bị khựng lại. Lực lượng CSBV bị thiệt hại nhiều đến độ họ lo sợ. Bộ tư lệnh chiến dịch 275 (lúc này chưa là chiến dịch Hồ Chí Minh) dưới quyền Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, và Văn Tiến Dũng, đề nghị Trần Văn Trà đến ngay mặt trận Xuân Lộc xem xét tình hình. Với tư cách là tư lệnh B-2, Trần Văn Trà có quyền ra lệnh cho Hoàng Cầm thay đổi chiến thuật đánh theo ý của ông ta. Trong hồi ký Kết Thúc Cuộc Chiến 30 Năm, Tập 5, Trà nhìn nhận ba sư đoàn của Hoàng Cầm bị thiệt hại quá nhiều. Càng tấn công kiểu trực diện (đánh thẳng vào phòng tuyến của sư đoàn 18), thì càng thiệt hại mà chưa chắc chiếm được Xuân Lộc. Tướng Trà đề nghị rút quân ra xa, tập hợp lại, đánh bứt phòng tuyến ở ngả ba Dầu Giây. Khi Dầu Giây mất, đường tiếp tế cho Xuân Lộc bị cắt; Xuân Lộc không còn là một hệ thống phòng thủ ích lợi cho VNCH nữa. Hoàng Cầm nghe lời, đánh theo chiến thuật của Trần Văn Trà. Như tiên liệu, khi phòng tuyến phía tây bị chọc thủng, Xuân Lộc bị cô lập, và trở thành vô dụng như một phòng tuyến cản địch vì không còn thu hút quân địch. Quân Đoàn III không còn cách nào khác hơn là di tản Xuân Lộc để bảo toàn lực lượng cho một phòng tuyến mới. Trong hồi ký, Hoàng Cầm viết với một giọng văn tự kiểm thảo về số quân hy sinh đánh vào Xuân Lộc. Sự hối hận có lẽ cũng bắt nguồn khi gần nguyên sư đoàn 341 bị hủy diệt bằng bom CBU (loại Daisy Cutter) của không quân VNCH. Hoàng Cầm trách Bộ Tư Lệnh Miền B-2 quá hối hả hả ra lệnh cho quân đoàn 4 tấn công Xuân Lộc (sư đoàn 7 đang trên đường từ Di Linh về, và bị thiệt hại nặng; sư đoàn 9, sư đoàn có kinh nghiệm nhiều nhất chiến trường miền đông, thì bị chuyển qua mặt trận tây nam của quân đoàn 232). Hoàng Cầm xin chờ, nhưng Trần Văn Trà nói lệnh của Hà Nội là phải đánh ngay. Xem Trần Văn Trà, trang 247-257; Hoàng Cầm, trang 403-420 (chú thích của dịch giả).
7. Một số trận đánh và hoạt động quân sự của quân đội VNCH ở Vùng IV được ghi lại trong tác phẩm Nguyễn Khoa Nam (Lake Forest, California: Hội Phát Huy Văn Hóa Việt Nam, 2001). Bài Trận Chiến Cuối Cùng của Quân Đoàn IV của trung tá Trần Văn Lưu, quận trưởng kiêm chi khu trưởng Tam Bình Vĩnh Long, có nhiều chi tiết về trận đánh này (chú thích của dịch giả).