Thursday 14 August 2014

Những Ngày Cuối Của VNCH

Nguyên Tác: The Final Collapse 

Của Đại Tướng Cao Văn Viên. 
Dịch Giả: Nguyễn Kỳ Phong







Chương 10: Kết Luận và Nhận Định

 Việt Nam Cộng Hòa mất về tay cộng sản sau ba mươi năm giao đấu trên chiến trường. CSVN đã chiến thắng qua lối đánh của họ dù gọi là chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng, hay chiến tranh giải phóng. Đây là nhắc nhở cho nhiều quốc gia khác: sẽ còn nhiều Việt Nam nữa trong tương lai. Từng quốc gia một, những quốc gia chống cộng lần lần bị xâm chiếm. Có thể đến một ngày nào đó, thế giới chỉ còn lại Hoa Kỳ, ba hay bốn cường quốc đồng minh, bao vây bởi những quốc gia cộng sản hay quốc gia thân cộng sản. Đây là viễn tượng bi quan chúng ta sẽ đối diện trong những thập niên sắp đến nếu chúng ta không nhận ra những khuyết điểm đã làm, để có thể tìm một đường lối hành động trong tương lai.
Sau khi đọc hết các chương trước, nếu để ý độc giả có thể nhận ra được những lý do đưa đến sự sụp đổ của miền Nam. Những lý do tác giả đưa ra trong sách này lý do lộ liễu hay ngấm ngầm là những lý do đưa đến sự thất thủ của miền Nam:
(1) Miền Nam đã ký một hiệp định trong đó cộng sản có nhiều ưu thế; và Hiệp Định Paris 1973 làm cho cán cân lực lượng nghiêng về phía cộng sản thêm sức mạnh và cho phép họ tấn công đánh chiếm miền Nam.
(2) Những hứa hẹn của tổng thống Nixon là Hoa Kỳ sẽ trả đũa mạnh trong trường hợp CSBV vi phạm hiệp định, đã không được tổng thống Ford thực hành khi CSBV tấn công miền Nam một cách lộ liễu.
(3) Sự giảm thiểu quân viện lớn lao và bất ngờ, gây nhiều trở ngại về khả năng tác chiến và làm suy sụp tinh thần dân miền Nam.
(4) Những quyết định chiến lược quyết định phải có của tổng thống Thiệu đưa ra quá trể để có thể thực hiện như mong muốn. Kế hoạch triệt thoái khỏi Cao Nguyên diễn ra quá vội vàng, đưa đến sự sụp đổ nhanh chóng của Quân Đoàn I và II.
(5) Cấp lãnh đạo VNCH không thấy rõ sự thay đổi về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ, khi Hoa Kỳ chuyển sang thái độ hòa hoãn, thoả hiệp với cộng sản quốc tế dù phải thất hứa với đồng minh. Vì không nhận rõ sự thay đổi ngoại giao của Hoa Kỳ, cấp lãnh đạo VNCH đã không uyển chuyển thay đổi kế hoạch quốc gia cho phù hợp với thực trạng và tình thế. Sau hiệp định Paris 1973, VNCH vẫn trông đợi vào những hứa hẹn xa vời và bất thể hiện.
Lý do sau cùng: sau một thời gian chiến tranh dài, Việt Nam Cộng Hòa bị phá sản về phương diện kinh tế cũng như chính trị. Tinh thần đoàn kết quốc gia không còn; không có được một lãnh tụ nào có thể kêu gọi toàn dân đoàn kết lại cho một chính nghĩa chung. Tham nhũng, thiếu khả năng, và thờ ơ với nhiệm vụ, chính phủ không làm tròn trách nhiệm với người dân trong khi người dân mất dần niềm tin vào chánh phủ. Mặc dù với nhiều kế hoạch kinh tế có vẻ lạc quan bề ngoài, nền kinh tế quốc gia tiếp tục đi xuống đến mức chỉ còn một phép lạ mới cứu vãn được. Với những khuyết điểm đó, cơ cấu và nền tảng xã hội miền Nam từ từ bị vỡ tan từng mảnh. Băng hoại đến từ sự chia rẽ, thiếu niềm tin, hoang mang, và đôi lúc, có những ý nghĩ chủ bại: Với những ung nhọt đó, miền Nam như một trái cây chín mùi, dể rụng trước một cơn gió nhẹ.
Ngoài lý do chính kể trên, đi ngược về quá khứ, nhiều lý do khác thuộc về lãnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao quốc tế... cùng đưa VNCH đến sự sụp đổ hoàn toàn. Sau đệ nhị thế chiến, không ai chối cãi vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ như một cường quốc trên thế giới. Nhưng đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ, đối với Việt Nam nói riêng, hay đối với Đông Nam Á nói chung, thay đổi nhiều lần qua nhiều giai đoạn từ sau năm 1945: Thời gian đầu Hoa Kỳ không có đường lối ngoại giai nào; kế đến là một đường lối chống cộng mãnh liệt; sau cùng là nhân nhượng và thỏa hiệp. Những thay đổi ngoại giao này ảnh hưởng chiến lực quân sự cũng như viện trợ kinh tế cho vùng Đông Nam Á.
Tổng thống Franklin D. Rooservelt không có một ý định rõ ràng về chuyện ủng hộ người Pháp trở lại Việt Nam sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt. Chính phủ Truman cũng không có thái độ dứt khoát khi Pháp và Việt Minh có những xung đột đầu tiên trong năm 1945-1946. Hoa Kỳ từ chối khi Pháp yêu cầu Hoa Kỳ cung cấp phương tiện chuyên chở để đưa quân Pháp trở lại Đông Dương; cũng như từ chối đứng về phía nguười Pháp đánh lại Việt Minh. Nhưng Hoa Kỳ cũng không chấp nhận lời kêu gọi ủng hộ một nền độc lập cho Việt Nam của Hồ Chí Minh. Vào tháng 7 và 8, sau khi chiếm được chính quyền ở Hà Nội, Hồ Chí Minh nhờ nhân viên Sở Tình Báo OSS gởi tổng thống Truman một lá thư thỉnh cầu Việt Nam được cho quyền tự trị giống như Phi Luật Tân trong thời gian chờ được hoàn toàn độc lập. Từ tháng 10-1945 cho đến tháng 2-1946, Hồ Chí Minh viết cho tổng thống Truman hay tổng trưởng ngoại giao Hoa Kỳ ít nhất là tám lá thư, thỉnh cầu Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc can thiệp vào chế độ thực dân của Pháp ở Việt Nam. Sử liệu không cho thấy Hoa Kỳ trả lời những thỉnh nguyện thư này. Như vậy, khi Hoa Kỳ không can thiệp, có nghĩa là Hoa Kỳ đứng về phía người Pháp.(1)
Nhưng vào năm 1949, sau khi Việt Nam được Pháp cho một chút độc lập như một quốc gia trong Liên Hiệp Pháp dưới sự lãnh đạo của Bảo Đại, Hoa Kỳ cũng không thật sự ủng hộ Bảo Đại vì nghĩ Bảo Đại là một lãnh tụ yếu và bù nhìn. Đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ đối với Việt Nam chỉ thay đổi khi Mao Trạch Đông toàn thâu Hoa Lục vào cuối năm 1949. Khi Trung Cộng và Nga công nhận chính phủ Hồ Chí Minh vào tháng Giêng, 1950, Hoa Kỳ lập tức công nhận chính phủ Bảo Đại vào tháng 2 năm đó. Rồi ba tháng sau, Hoa Kỳ tuyên bố sẽ viện trợ quân sự và kinh tế cho Pháp để giúp Pháp tiếp tục cai trị Đông Dương. Từ một ngân khoản nhỏ là 10 triệu Mỹ kim lúc khởi đầu, ngân quỹ viện trợ cho Pháp tăng lên gần 1 tỉ Mỹ kim vào đầu năm 1954. Cuộc chiến tranh thứ nhất ở Đông Dương được khởi sự bằng tiền Mỹ qua bàn tay Pháp.(2)
Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ và phải ký Hiệp Định Geneva năm 1954, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia của chính phủ Eisenhower nghĩ hiệp định Geneva quá bất lợi cho chiến lược của đồng minh, và Hoa Kỳ phải tìm cách chận đứng làn sóng cộng sản tràn xuống miền Nam. Chủ đích của đường lối ngoại giao Hoa Kỳ là "bảo vệ và duy trì một quốc gia ở miền Nam không cộng sản" đây là chính phủ Việt Nam Cộng Hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm "và ngăn chận không cho cộng sản chiếm được đa số" trong cuộc bầu cử tổng quát trên toàn cõi Việt Nam, nếu cuộc bầu cử được tổ chức. Việt Nam Cộng Hòa bây giờ nhận viện trợ thẳng từ Hoa Kỳ. Quân đội VNCH, do người Pháp huấn luyện từ trước, được cải tổ sâu rộng những quân nhân trong quân đội cũ, dù với nhiều kinh nghiệm chiến trường, nhưng vì có liên hệ với người Pháp, bị cho về hưu. Một thế hệ quân nhân mới, một chế độ quân dịch mới được lập thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Mục đích là thành lập các đơn vị cấp sư đoàn dưới sự hướng dẫn của người Mỹ. Phương pháp huấn luyện và quân dụng của quân đội Hoa Kỳ được toàn bộ áp dụng. Để làm quen với hệ thống chỉ huy mới, sĩ quan bị bắt buộc theo học khoá Chỉ Huy và Lãnh Đạo. Một số trong những sĩ quan này được đưa sang Hoa Kỳ để tiếp tục được huấn luyện thêm ở những trung tâm quân sự. Khi thành tổng thống, Kennedy thay đổi đường lối ngoại giao quân sự của chính phủ Eisenhower bằng cách gia tăng sự hiện diện của người Mỹ nhiều hơn ở Việt Nam. Tuy nhiên, chính phủ Kennedy chỉ cung cấp cố vấn chứ chưa thật sự cho lính tác chiến song song với quân đội VNCH. Sau khi Kennedy bị ám sát, tổng thống Johnson nới rộng cuộc chiến bằng cách đem nhiều quân tác chiến vào và bắt đầu dội bom Bắc Việt. Từ con số 3500 quân vào tháng 3-1965, Hoa Kỳ có hơn 550,000 quân ở Việt Nam vào đầu năm 1969.
Nhưng sau tổng thống Johnson, người tổng thống kế vị, Richard Nixon, thay đổi phương cách hổ trợ của Hoa Kỳ ở Việt Nam qua một kế hoạch gọi là Việt Nam Hóa. Kế hoạch này là một sản phẩm phụ của chủ thuyết ngoại giao mới. Thay vì đương đầu thẳng với cộng sản, ông kêu gọi hợp tác, đồng lòng, và sức mạnh của quốc gia là ba rường cột đưa đến hòa bình thế giới. Cái khác biệt của chủ thuyết Nixon về an ninh quốc phòng khác với những chủ thuyết ngoại giao của Hoa Kỳ từ năm 1945 cho đến nay là, Nixon đặt nặng chủ thuyết của ông vào "vai trò của đồng minh trong vấn đề phòng thủ chung." Tổng trưởng quốc phòng Melvin R. Laird chỉ trích chủ thuyết ngoại giao của Nixon như sau:
"Từ quan điểm phòng thủ Hoa Kỳ, thảm kịch thật sự của Việt Nam là chương trình Việt Nam Hóa không được bắt đầu sớm hơn năm 1969, với những kế hoạch có chủ tâm huấn luyện và trang bị quân đội VNCH hữu hiệu hơn, để họ có thể chiến đấu chống lại CSBV, và chống lại những quấy phá của Việt Cộng về vấn đề an ninh trong lãnh thổ. Cơ hội Việt Nam Hóa đã có từ đầu thập niên 60 (và không chỉ ở Việt Nam). Nhưng cơ hội đó bị bỏ qua một bên, thay vào đó là quyết định đem quân tác chiến vào Việt Nam và gia tăng sự có mặt của Hoa Kỳ trên mọi lãnh vực của cuộc chiến."(3)
Lấy thí dụ về khẩu súng cá nhân căn bản của quân đội VNCH, súng AR-15, sau này là M-16: AR-15 được thử nghiệm ngoài chiến trường từ năm 1964. Lữ Đoàn Nhảy Dù thích loại súng cá nhân này: nhẹ, dễ bảo trì, chính xác, đạn nhỏ, có thể mang trên người một số lượng lớn. Tuy đầu đạn nhỏ, nhưng sức công phá rất mạnh vì vận tốc nhanh của đạn. Nói tóm lại, đây là loại súng thích hợp cho quân nhân Việt Nam, ở chiến trường Việt Nam. Nhưng chỉ có hơn hai trăm khẩu AR-15 được đem qua thử nghiệm và xử dụng. Sau này súng M-16 chỉ được viện trợ đồng loạt để làm căn bản cho quân đội VNCH sau khi VC và CSVN chúng tỏ hỏa lực của họ qua loại vũ khí cá nhân như AK-47. Các loại vũ khí khác của CSBV cũng tỏ ra rất tối tân so với vũ khí cá nhân của chúng ta. Quân đội VNCH chỉ nhận được súng chống xe tăng M-72 và hỏa tiển TOW, sau khi cộng sản đã được trang bị hỏa tiễn chống người và xe tăng B-40, B-41. Tương tự, quân đội VNCH được trangbị đại bác 175 ly và xe tăng M-48 sau khi cộng sản đã có đại bác 130 ly và tăng T-54. Đó là một vài thí dụ về vũ khí trang bị ở chiến trường.
Phải công nhận, lệ thuộc vào vũ khí tối tân đôi khi cũng có nhiều vấn đề, nếu không nói là nguy hiểm. Trước năm 1954, trong khi chiến đấu song song bên cạnh quân đội Pháp một quốc gia không giàu như Hoa Kỳ Quân Đội Quốc Gia Việt Nam phải dung hòa giữa sức người và cơ giới. Nhưng đến năm 1955 khi nhận quân viện thẳng từ Hoa Kỳ, quân đội VNCH đã áp dụng chiến thuật đã học tập từ quân đội Hoa Kỳ, và áp dụng một cách triệt để trong suốt thời gian chiến đấu bên cạnh quân đội Hoa Kỳ. Nhưng lối đánh giặc kiểu đó được gọi là kiểu đánh giặc nhà giàu. Với văn minh khoa học tân tiến, Hoa Kỳ dùng kỹ thuật thay thế cho nhân lực: Thay vì đi bộ hành quân, chúng ta dùng thiết vận xa M-113; tất cả những cuộc tấn công đều được phi pháo yểm trợ tối đa. Khi quân viện bị cắt giảm, từ tình trạng dư thừa rơi xuống túng thiếu, tinh thần và khả năng tác chiến của quân đội VNCH bị sa sút. Từ đầu năm 1974, BTTM cố gắng áp dụng nhiều biện pháp để thay đổi, sửa chữa lối đánh giặc tốn kém đó, nhưng không còn đủ thời gian.
Còn người cộng sản thì sao" Có viện trợ hay không có viện trợ họ xoay sở ra làm sao" Sau cùng, họ đã chiếm miền Nam bằng xe tăng và đại pháo của Nga. Trong giai đoạn đầu chiến tranh, phải nói, vũ khí của Việt Minh và cộng sản có được đến từ Pháp và Nhật trong các trận phục kính hay thắng trận. Ngoài ra, họ dùng sức người thay cơ giới trong lối đánh giặc nhà ngèo của họ. Trong giai đoạn sơ thời của chiến tranh du kích, cộng sản ở miền Nam sống bám chặt vào dân ở nông thôn như loài dây leo cần một thân cây để sống. Họ đánh thuế vào nông và đặc sản địa phương để gây quỹ cho cuộc chiến. Chính phủ VNCH đã dùng nhiều biện pháp để ngăn chận kế hoạch thâu thuế của cộng sản, nhất là vào các đặc sản như lúa và cao su.
Sau khi Mao Trach Đông toàn thâu Hoa Lục, từ năm 1950 trở đi, Việt Minh nhận rất nhiều quân viện từ Nga và Trung Cộng. Nhưng để dể hoạt động, Bắc Việt không bao giờ công bố chính xác số quân viện nhận từ các đồng minh cộng sản. Cũng như Trung Cộng có nhiều cố vấn trong quân đội Bắc Việt, nhưng họ không bao giờ công nhận điều này. Trái lại, CSBV lúc nào cũng giáo huấn cán bộ và binh sĩ của họ phải tự lực hơn là nhờ vào viện trợ nước ngoài. Dù nhờ vào số vũ khí tối tân và quan trọng để chiến thắng miền Nam, nhưng CSBV không bao giờ coi đó là một yếu tố quan trọng.
Về phía VNCH, chiến thuật và chiến lược của cuộc chiến lúc nào cũng nằm ở thế thụ động, phòng thủ. Vì mục đích của VNCH là chỉ ngăn chận chứ không bao giờ nghĩ chuyện tấn công ra miền Bắc. Hai lần trong cuộc chiến quân đội VNCH băng qua biên giới Lào và Cam Bốt để đánh vào căn cứ hậu cần của CSBV. Tuy nhiên những cuộc tấn công này vẫn có chủ đích phòng thủ và không bao giờ được hoạch định như một kế hoạch dài hạn. Mục đích chính của quân đội VNCH là bình định (có nghĩa là kiểm soát) dân số trong lãnh thổ. Từ nhiệm vụ chính đó, chiến lược quân sự của VNCH có hai mặt: một, bình định ở vùng đông dân cư; hai, truy lùng và triệt tiêu các đơn vị lớn của CS ở vùng thưa dân cư. Trong suốt cuộc chiến, chiến lược này bắt quân đội VNCH phải chạy theo sau đối phương vì CSBV lúc nào cũng nắm thế thượng phong về chiến thuật cũng như là vũ khí.
Nhiều người chưa thấu đáo về quân sự hỏi, tại sao chúng ta không đánh bại được cộng sản trong những năm đầu của cuộc chiến, khi quân ta đông hơn du kích quân cộng sản" Lý do chánh là chiến tranh du kích có qui tắc riêng và khác xa chiến tranh qui ước. Trong chiến tranh du kích, địch không có cơ sở hay căn cứ nằm lộ ra ngoài để họ cần bảo vệ. Du kích sống trà trộn với dân và ngay trong lãnh thổ của ta, hay ẩn núp ở mật khu của họ. Khi đông quân và ở thế thượng phong, họ tấn công. Ngược lại, họ lẫn trốn khi yếu thế. Sau mỗi trận đánh, cộng quân rút về mật khu để tái bổ sung, huấn luyện và trang bị. Chiến tranh với cộng sản ở Hy Lạp và Mã Lai Á hay Phi Luật Tân dễ hơn ở Việt Nam. Những quốc gia đó là những bán đảo, hay ở giữa biển, rất dể ngăn chận người và vật liệu xâm nhập từ ngoài vào. Nhưng VNCH có chung biên giới dài cả ngàn cây số với Bắc Việt, Lào và Cam Bốt. Biên giới dài vô tận đó, với núi đèo và rừng sâu tiện lợi cho việc thiết lập căn cứ, cộng sản ở miền nam dùng đó để tiếp nhận vũ khí, nhân sự từ quân đội chánh quy CSBV.        (Còn tiếp...)


Chú thích:
1. Kết luận về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ , dựa theo "Tài Liệu Ngũ Giác Đài" đăng trên báo The New York Times năm 1971. Về liên hệ giữa Hồ Chí Minh và toán OSS ở Côn Minh, thư từ của Hồ Chí Minh gởi cho Bộ Ngoại Giao và tổng thống Truman, xin đọc Why Vietnam: Prelude to America's Albatross của Archimedes L.A. Patti (Los Angeles: University of California Press, 1980), (chú thích của tác giả).
2. Sau Thế Chiến Thứ II, từ năm 1946 Stalin tuyên bố sẽ có kế hoạch nhuộm đỏ thế giới. Để ngăn chận sự bành trướng của cộng sản, Hoa Kỳ đề xướng chủ thuyết Ngăn Chận, hay Chận Đứng (Containment), và coi đó như một chủ thuyết ngoại giao quốc gia, dùng để giới hạn làn sóng cộng sản quốc tế. Chủ thuyết này đã giúp các quốc gia như Hy Lạp, Phi Luật Tân, Mã Lai Á hay Đại Hàn tồn tại trước những tấn công của cộng sản. Tuy nhiên vì địa lý thiên nhiên, tình hình chính trị và nhân văn quá đặc biệt của các quốc gia Đông Dương, nếu chủ thuyết Ngăn Chận được bổ túc bằng chiến lược cô lập (sẽ nói ở phần cuối cuốn sách) thành một chiến lược chính trị địa lý (geopolitics) thì cục diện chiến tranh có thể biến chuyển thuận lợi cho VNCH, Lào và Cam Bốt (chú thích của tác giả).
3. Trích trong bài diễn văn "The Nixon Doctrine: From Despair to New Opportunities" của tổng trưởng quốc phòng Melvin R. Laird.


 (Tiếp theo Chương 10...)
Trong khi đó phía quân đội VNCH cần phải có lính để canh giữ đồn bót, cơ quan hành chánh; phải bảo vệ an ninh cho dân ở điạ phương, dù điạ phương đó ở gần hay xa thị tứ. Dĩ nhiên, lính lại cần nhiều hơn nữa cho các cuộc hành quân truy lùng và triệt tiêu. Theo những nghiên cứu của các chuyên gia về du kích chiến. Muốn thắng du kích quân, chúng ta cần có một lực lượng 10 trên 1; với lực lượng 5 trên 1, cuộc chiến sẽ bất phân thắng bại và kéo dài trong một thời gian vô định. Ngược lại, nếu lực lượng của chính phủ chỉ hơn du kích quân 2 đến 3 lần, thì du kích quân sẽ có cơ hội thắng. Tỉ lệ giữa lực lượng Đồng Minh và cộng sản trong cuộc chiến Việt Nam là 4.7 trên 1 khi Đồng Minh có 1 triệu 500 ngàn quân và cộng sản có 320 ngàn quân. Với tỉ lệ quân số này, chúng ta có khả năng đánh bật cộng sản ra ngoài lãnh thổ VNCH. Nhưng phải hiểu, ngoài những hỏa lực cơ hữu của các sư đoàn bộ binh Hoa Kỳ, quân đội Hoa Kỳ và VNCH còn được không trợ của Không và Hải Quân Hoa Kỳ yểm trợ tối đa khi cần.
Với những yểm trợ từ cộng sản quốc tế, chiến tranh ở Việt Nam không còn là một cuộc "nội chiến" như nhiều người đã lầm tưởng. Trong những giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, quân đội CSBV được trang bị vũ khí tối tân nhất của khối cộng sản. Kế hoạch đánh chiếm miền Nam được CSBV soạn thảo và chỉ huy, và thể hiện qua con bài của họ là Mặt Trận Giải Phóng và Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Nam Việt Nam.
Có nhiều đề nghị tại sao VNCH không dùng chiến thuật du kích để đánh lại cộng sản ngay trong vùng kiểm soát của họ, hay ngay ở miền Bắc" Những chiến thuật của du kích chiến chỉ có thể thực hiện được trên một tầm vóc nhỏ, giới hạn. Quân chúng ta không thể nào sống trong lòng địch và có được sự yểm trợ của dân địa phương. Khi chúng ta áp dụng chiến thuật du kích để đánh du kích, chúng ta có nhiều thất bại hơn thành công. Có một định lý về chế độ kiểm soát của cộng sản: khi một nhóm dân bị cộng sản ở địa phương đó kiểm soát trong một thời gian vài năm, nhóm dân ở đó sẽ bị kiểm soát chặt không thoát được những người chống đối sẽ bị cô lập; các lãnh tụ đối lập bị triệt tiêu hay vô hiệu hóa.
Việt Nam có được độc lập từ cuối năm 1954. Nhưng như một quốc gia, toàn dân Việt Nam chưa tiến đến một trình độ dân trí được coi như là khả quan. Nhiều người dân sống trong hoàn cảnh chiến tranh lâu đến độ họ không quan tâm đến chiến tranh nữa. Vì thế người dân cần được thúc đẩy, giáo dục và hướng dẫn. Nhưng dân chủ, một hình thức chánh phủ mới lạ với họ chưa chắc là một giải pháp tốt nhất.
Khi một quốc gia đang chiến đấu để sinh tồn và cùng lúc muốn bảo vệ những nguyên tắc dân chủ là một chuyện khó khăn. Có lúc, chính quyền VNCH không thể nào áp dụng những phương thức "trái dân chủ" để giải quyết những tệ trạng như đào ngũ, trốn lính, biểu tình, hay những phong trào phản động có khuynh hướng làm lợi cho địch. Chính phủ VNCH có nhiều khiếm khuyết trong việc ngăn chận những thành phần thân cộng đang sống một cách tự do để hoạt động cho phía họ. Nhiều thân nhân của các cán bộ cao cấp cộng sản vẫn được chính phủ VNCH cho phép sống một cách yên lành ở ngay trong vùng kiểm soát của quốc gia. Sau khi Saigon thất thủ, nhiều văn nghệ sĩ, quân nhân công chức ở lại đã được chánh quyền cộng sản thưởng cho nhiều vai trò trong cơ sở hành chánh của họ. Đối với tác giả, trong một hoàn cảnh chiến tranh, tất cả quyết định và kế hoạch đều phải hướng về chủ đích chiến đấu để chiến thắng. Mọi ưu tiên đều phải dành cho chiến tranh; tất cả các kế hoạch khác chỉ là phụ thuộc.
Nói một cách tổng quát, kế hoạch tổng động viên của VNCH chỉ đem lại được phân nửa số nhân lực quân đội cần thiết. Chính phủ đạt được những kết quả khiêm nhường trong kế hoạch ngăn ngừa nạn trốn lính, đào ngũ, để kiểm soát được nhân lực của quốc gia. Vì thiếu quân số thường xuyên, các đơn vị ít được cơ hội nghỉ dưỡng sức dài hạn và bồi dưởng. Trong khi đó điều kiện vật chất và đời sống của gia đình binh sĩ thường dưới mức trung bình. Chính phủ VNCH có nhiều khuyết điểm trong việc tuyển chọn, xử dụng nhân sự trong quân đội và hành chánh: sự bổ nhiệm và thăng thưởng không tùy thuộc vào đức hạnh, khả năng hay tài sức, mà tùy thuộc vào sự quen biết cá nhân, liên hệ gia đình hay giòng họ. Sự trừng phạt cũng chỉ lấy lệ, đôi khi không có, đối với những quân nhân công chức phạm pháp. Điều này thúc đẩy thêm nhiều sự phạm pháp trong nền hành chánh và trong quân đội.
Dù dân số Bắc Việt chỉ hơn miền Nam hai triệu người, chế độ quân dịch và hệ thống đôn quân của họ đưọc kiểm soát chặt chẽ và sâu rộng. Ngay cả các tù binh chiến tranh sau khi được phóng thích hay trao trả, CSBV tái huấn luyện và bổ sung trở lại đơn vị. Miền Bắc cũng có chương trình tổng động viên, nhưng hệ thống quân dịch của CSBV được kiểm soát rất nghiêm ngặt; nạn trốn lính được giảm thiểu tối đa. Cùng lúc, ở những vùng hẻo lánh ở miền Nam, cộng sản ép buộc, dụ dổ những vị thành niên ở lứa tuổi 15-17 gia nhập quân đội họ. Nói một cách tổng quát, Bắc Việt có ưu thế nhiều hơn VNCH với một hậu phương được kiểm soát kỹ dưới hệ thống độc đảng của một xã hội cộng sản.
Trong chiến tranh Đại Hàn, quân đội đồng minh của Liên Hiệp Quốc nằm dưới một bộ tư lệnh duy nhất do Hoa Kỳ chỉ huy. Ngay trong giai đoạn hiểm nghèo nhất của cuộc chiến, tổng thống Nam Hàn đã cho phép công dân Nam Hàn chiến đấu trong các đơn vị Hoa Kỳ. Ở Việt Nam, trong giai đoạn cao nhất của cuộc chiến, quân đội VNCH và Hoa Kỳ không bao giờ có một bộ chỉ huy chung. Đó là một lỗi lầm lớn nhất trong nguyên tắc chiến tranh: hai quân đội không có được một bộ tư lệnh chung để điều khiển tất cả các lực lượng đang có mặt ở chiến trường. Khi thay vào một bộ tư lệnh duy nhất bằng những kế hoạch như hợp tác và điều hành hỗn hợp, sự thành công ở chiến trường, nếu có, chỉ phụ thuộc vào các vị tư lệnh chiến trường cố gắng tránh đụng chạm nhau. Có nhiều sự đụng chạm giữa hai phía Việt Mỹ đã xảy ra trong chiến trường Việt Nam, tuy nhiên những xung đột này không quan trọng hay đưa đến một đổ vỡ nào. Nhưng khi không có một bộ tư lệnh chung, những quyết định quân sự không được thực hiện nhanh chóng, những tiềm năng quân sự, nhân lực, không được áp dụng đúng chổ.
Về chiến thuật, với phương tiện cơ hữu như thiết vận xa M-113 và trực thăng, quân đội có thể mở những cuộc hành quân lớn một cách chớp nhoáng, thay vì phải bỏ ra nhiều ngày di chuyển đến mục tiêu. Nếu cần phải đóng quân lại tại một mặt trận lâu ngày, các căn cứ hoả lực có thể được thiết lập ngay để có thể cung cấp hoả lực cho mặt trận nếu cần. Nhưng phải nhấn mạnh, trong cuộc chiến Việt Nam, các tư lệnh chiến trường phải thường trực thay đổi chiến thuật, vì địch rất nhạy bén trong vấn đề thích ứng với chiến thuật mới của đối phương ở chiến trường để tránh thiệt hại.
Về quân báo: quân đội VNCH đạt được nhiều thành công khả quan về cơ cấu tổ chức cũng như về kỹ thuật thu thập tin tức. Từ năm 1968 trở đi, tin tức tình báo chúng ta thâu thập được chính xác và cập nhật hoá hơn. Tương tự, ở ngành Tiếp Liệu, hệ thống phân phối quân dụng, vũ khí cho quân đội được tối tân hóa, để các đơn vị có thể nhận được nhu dụng cần thiết nhanh chóng theo sự đòi hỏi của họ.
Nhiệm vụ căn bản của Không Quân Việt Nam là yểm trợ không lực chiến thuật ngoài mặt trận và chuyên chở không vận. Không Quân có khả năng rất giới hạn trong nhiệm vụ phòng thủ không phận. Vào cuối nâm 1974 khi CSBV trang bị thêm nhiều hoả tiễn và phòng không tối tân, khả năng yểm trợ của không quân ở chiến trường giới hạn và kém hữu hiệu. Hải Quân Việt Nam, với nhiệm vụ chính là ngăn chận sự xâm nhập của CSBV ở sông và miền duyên hải. Hải Quân Việt Nam không phải là một lực lượng đáng ngại so với các nước tân tiến khác. Vũ khí trang bị của Hải Quân Việt Nam tỏ ra khiếm khuyết so với Hải Quân Trung Cộng khi hai nước giao chiến ở quần đảo Hoàng Sa vào đầu năm 1974.
Nói một cách tổng quát về khả năng của quân lực VNCH: trừ những khiếm khuyết về quân số và sự quản trị nhân lực, khi được trang bị đầy đủ, quân đội VNCH có thừa khả năng hoàn tất nhiệm vụ, như họ đã chứng minh vào hai cuộc tấn công ồ ạt của cộng sản vào năm 1968 và 1972.
Cuộc chiến tranh CSBV đeo đuổi liên tục qua một thời gian dài ở Việt Nam không phải là một cuộc chiến thuần túy về quân sự. Đó là một cuộc chiến toàn diện với những mặt trận về chính trị, ngoại giao và kinh tế. Về phương diện chính trị, cộng sản đã khôn khéo, không những lấy được viện trợ của các nước cộng sản, mà họ còn được sự ủng hộ của các quốc gia nằm trong khối Bất Liên Hiệp. CSVN lấy lòng được cả hai đàn anh Trung Cộng và Nga Sô dù hai quốc gia này đang gây hấn nhau để nhận quân viện từ hai bên. Theo những tin tức từ giới ngoại giao, trong năm 1974, CSBV nhận gấp ba, bốn lần, số quân viện so với các năm trước.
Cộng sản biết rõ quân đội VNCH sẽ chiến đấu nếu họ được một số quân viện tối thiểu. Biết được điều đó, CSBV tìm mọi cách để ngăn chận Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ cho VNCH. Đây là một đòn rất độc hiểm của cộng sản, vì quân viện là nền tảng của cuộc chiến này. CSBV dùng tất cả bộ máy truyên truyền trong và ngoài nước để làm lợi cho họ. Một mặt họ tuyên truyền cuộc xâm lăng của họ là đúng; và cuộc chiến tự vệ của VNCH là sai. Sự tuyên truyền gây một ngộ nhận cho dân chúng Hoa Kỳ nghĩ chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến vô nhân bản; chánh phủ VNCH là một chánh phủ thiếu khả năng, tham nhũng, không xứng đáng nhận viện trợ của Hoa Kỳ và thế giới tự do.(4)
Một số lớn báo chí Hoa Kỳ có khuynh hướng chống lại cuộc chiến ở Việt Nam, và họ không có thái độ nào để chống lại những tuyên truyền sai lạc của cộng sản. Thêm vào đó, với những nhóm phản chiến rầm rộ tuyên truyền tiếp tay, khiến tiếng nói trung thực của chúng ta bị chìm sâu trong những ồn ào phản chiến; lý tưởng của cuộc tranh đấu bị lãng quên hay bị bỏ rơi. Một trong những nhóm phản chiến này có tên là Trung Tâm Hoạt Kế Đông Dương. Theo lời tường trình của đại sứ Graham Martin, Trung Tâm này là nơi qui tụ nhiều thành phần như giáo sư, tu sĩ, các nhà truyền giáo... họ in và lưu hành nhiều bức thư "hoà bình," kêu gọi ngưng cuộc chiến và chấm dứt mọi quân viện cho miền Nam.
Tuyên truyền chống chiến tranh của cộng sản đã làm tâm lý quần chúng Hoa Kỳ nghĩ cuộc chiến ở Việt Nam là một cuộc phiêu lưu vô vọng; một cuộc chiến không lối thoát. Từ những thái độ đó, thanh niên, học sinh Mỹ đứng lên biểu tình chống chiến tranh. Bị những áp lực đến từ quần chúng, quốc hội Hoa Kỳ không còn cách nào khác hơn là đưa ra những quyết nghị giới hạn dần những hoạt động quân sự của chính phủ Hoa Kỳ ở Đông Dương, rồi sau đó là quyết định giảm thiểu viện trợ cho VNCH. Sau cuộc chiến tranh Việt Pháp, mọi người nói sự thất bại xảy ra ở Ba Lê. Tương tự, trong cuộc chiến này, sự thất trận bắt nguồn tự nội địa Hoa Kỳ.
Chúng ta không thể phủ nhận kẻ thù của chúng ta quyết tâm, kiên trì và nhiều kinh nghiệm trong cuộc chiến. Trong suốt cuộc chiến, CSBV có một đường lối, kế hoạch chính trị quân sự liên tục, không thay đổi. Mục tiêu cố định của họ là cưỡng chiếm miền Nam qua những giai đoạn chiến tranh nhân dân, hay chiến tranh giải phóng bằng biện pháp quân sự. CSBV có nhiều thay đổi, có nhiều quyết nghị về cuộc chiến, nhưng tựu trung thái độ và mục đích của họ vẫn là dùng biện pháp quân sự để giải quyết chiến tranh.
Chiến lược của chúng ta trong cuộc chiến không được liên tục. Sau khi Hiệp Định Ba Lê được ký, trong khi cộng sản vẫn tiếp tục chuẩn bị cho những cuộc tấn công sau cùng, VNCH quay sang lo cải tổ, sửa soạn chấn hưng nền kinh tế. Để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, chúng ta đã rút bớt 100 ngàn quân, đưa vào các kế hoạch kinh tế và sản xuất. Khi nhận ra cộng sản vẫn tiếp tục vi phạm hiệp ước đình chiến, kế hoạch trên đã phải hủy bỏ: ta đã mất đi một thời gian qúy báu.
Cộng sản không bao giờ quan tâm về những thiệt hại, dù lớn đến đâu. Mọi kế hoạch quân sự, thắng hay thua, đều có ý nghĩa như nhau miễn sao đạt được mục đích chính trị. Hai thí dụ điển hình về sự bất chấp thiệt hại nhân sự để đạt được tiếng vang chính trị, là trận tấn công năm Mậu Thân 1968 và trận "Mùa Hè Đỏ Lửa" năm 1972. Tình hình chung của VNCH vào năm 1968 rất khả quan. Mọi kế hoạch bình định tiến triển vượt bực; tình hình quân sự chung trên chiến trường cho thấy cuộc chiến sắp đến giai đoạn kết thúc. Nói theo quan điểm người Mỹ lúc đó là, chúng ta đã "nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm." Nhưng ngay giai đoạn đó cộng sản bất thần mở ba cuộc tấn công tự sát vào thị trấn, quận lỵ quan trọng ở miền Nam. Mặc dù cộng sản bị thiệt hại khủng khiếp trong các cuộc tấn công đó, nhưng họ chứng tỏ cho thế giới và Hoa Kỳ biết là họ chưa thua hẳn, và có khả năng làm những chuyện không ai ngờ được. Dư luận ở Mỹ và thế giới sửng sốt vì cuộc tấn công liều mạng của cộng sản. Cũng có lẽ cuộc tấn công đó đưa đến sự nghi ngờ của dân chúng Hoa Kỳ về cuộc chiến ở Việt Nam, và khiến tổng thống Lyndon Johnson không muốn ra ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa.
Năm 1972, đối diện với cuộc hội đàm nửa kín nửa hở giữa Lê Đức Thọ và Kissinger về cuộc chiến Việt Nam. Khi biết Hoa Kỳ không nhượng bộ những đòi hỏi của họ, CSBV quyết định tràn qua vĩ tuyến 17 tấn công VNCH ở nhiều nơi. Một lần nữa CSBV hoàn toàn thảm bại: khi cuộc tấn công bị bẻ gẫy vào cuối năm 1972, trung bình một tiểu đoàn CSBV chỉ còn khoảng 100 người.(6) Ngay trước thời điểm CSBV tấn công, tổng thống Nixon, đang phải đương đầu với nhiều khủng hoảng tại nội địa, nhất là khuynh hướng phản chiến ở quốc hội, đề nghị với Hà Nội là Hoa Kỳ sẽ rút hết quân khỏi miền Nam trong vòng 120 ngày sau khi hiệp định được ký kết, và sau khi Hà Nội trao trả hết tù binh Mỹ đang bị giam cầm ở miền Bắc. Tuy nhiên Hà Nội gạt bỏ đề nghị của Hoa Kỳ và tấn công như dự định.
Trong cuộc chiến Việt Nam, những yếu điểm và thất bại của cộng sản được họ che giấu rất kỹ, và đã không được chúng ta khai thác có kết quả. Quân đội của cộng sản thông thường được huấn luyện để tấn công những mục tiêu đã được tập trước. Họ rất lúng túng nếu phải đương đầu hay chiến đấu trước những tình thế, hoàn cảnh bất ngờ. Tuy nhiên sau khi thất bại, họ phải trả bằng những buổi học tập tự kiểm thảo. phải nói ý chí và sự kiên cường của họ đã được đền bù sau một trong thời gian dài.
Ngược lại, phía bên chúng ta không học kỷ bài học lịch sử. Chúng ta không biết lợi dụng những thành công và tiếp tục theo đuổi những thành công đó. Theo thiển ý của tác giả, với những thành quả quân sự quân đội VNCH có được sau năm 1968, lẽ ra chúng ta phải tiếp tục đánh tới tấp, phản công mạnh. Nếu làm như vậy, có lẽ cuộc chiến đã được giải quyết trong thời điểm đó. Mọi sự quan sát cho thấy sau cuộc tấn công tự sát vào năm Mậu Thân, tiềm năng của cộng sản đã kiệt quệ và phải cần gần bốn năm sau mới phục hồi lại khả năng chiến đấu. Theo một nguồn tin không chánh thức, Trung Ương Cục Miền Nam có lần bị trúng bom B-52, và hệ thống này bị tê liệt trong một giai đoạn. Rất tiếc chúng ta không khai thác thêm.
Ưu điểm và khuyết điểm; lợi thế và thất thế của hai bên CSBV và VNCH được tổng kết lại và kết quả là sự thất thủ của miền Nam. Chúng ta có thể học được bài học từ sự thất bại đó để có một chính sách đối ứng vối cộng sản trong tương lai. Nhưng đến một ngày nào đó thì đã qúa trễ. Thử thách của cộng sản lúc nào cũng hiện hữu trước chúng ta.


Chú thích:
4. Đối với một quốc gia đang phát triển, vấn đề đầu tư và viện trợ từ nước ngoài là một vấn đề quan trọng trong giai đoạn thành hình. Nhưng quốc gia nhận viện trợ không nhất thiết phải dùng tất cả ngân khoản vào mục đích tự lực, tự cường, trong một giai đoạn ngắn vì viện trợ lúc nào cũng đi kèm với những đòi hỏi về chính trị, dù đó là viện trợ quân sự hay kinh tế. Khi quốc gia đang nhận viện trợ bị tàn phá vì chiến tranh như trường hợp VNCH, quốc gia đó cần nhận được nhiều viện trợ trong một thời gian càng lâu càng tốt. Trong trường hợp đó, ngân khoản viện trợ phải được coi như một kế hoạch dài hạn: phải ước lượng thời gian nhận được viện trợ sẽ bao lâu, quốc gia cần những viện trợ gì và cần bao nhiêu hàng năm. Khi xếp đặt vấn đề viện trợ thành một mục tiêu dài hạng, chính phủ mới biết được kế hoạch thường niên, và sẽ phản ứng ra sao khi không còn nhận được viện trợ vì viện trợ sẽ chấm dứt một ngày nào đó. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, viện trợ không thể bị cắt ngang một cách đột ngột, vì ảnh hưởng tâm lý và vật chất rất trầm trọng cho quốc gia đang nhận viện trợ. Một kế hoạch viện trợ lý tưởng là kế hoạch làm cho nước nhận viện trợ được tự túc, tự lực trong một thời gian ngắn nhất. Lãnh tụ của các quốc gia nhận viện trợ thường bị chỉ trích là tham nhũng và thiếu khả năng lãnh đạo. Một số lãnh tụ đáng bị chỉ trích và cần được thay thế bằng một người có khả năng hơn. Và nếu một quốc gia không có được một lãnh tụ có khả năng quản trị, thì quốc gia đó không xứng đáng nhận viện trợ: vì không có viện trợ nào dù lớn đến đâu có thể cứu vãn sự suy sụp, không sớm thì muộn, của quốc gia đó. (chú thích của tác giả).
5. Về tình hình quân sự bi đát và tinh thần sa sút của quân đội CSBV sau cuộc tấn công năm 1972, đọc, thượng tướng Nguyễn Hữu An, Chiến Trường Mới (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2002), trang 164-189 (chú thích của dịch giả).